ZingTruyen.Store

[Xuyên/CHLS] Nho Sinh

Q1 - Chương 9

motdongbonhao

Quyển 1: Mười năm đèn sách

Chương 9

Tùng không ngủ được. Nó mất ngủ mấy đêm rồi, cứ khuya khoắt lại trằn trọc, rạng sáng mới nhắm mắt được vài ba phút rồi lại tỉnh. Đầu nó vẫn văng vẳng lời nói của Chung, trong thâm tâm không tài nào chấp nhận sự thật nghiệt ngã rằng thế giới này tồn tại loại người không được đi học.

Sự thật ấy chẳng khác nào một cái mặt nạ hề dính chặt lên gương mặt Tùng, biến nó thành vai chính trên một sân khấu hài kịch nơi mà người người đua nhau cười nhạo nó. Cười xong rồi, mấy người đó lại la ó nó diễn thậm tệ, người tài giả ngu đâu còn là trend nữa đâu, chưa kể nó giả ngu còn không đến nơi đến chốn. Lại có người ném rác lên người nó, than rằng trên đời có người không thể đi học, nó được tạo điều kiện đến thế còn làm dáng cái gì?

Sự khó chịu này khác hoàn toàn với lúc bị so sánh với "học sinh nghèo vượt khó" trên tivi hồi trước. Học sinh nghèo dẫu sao cũng là học sinh nghèo, còn Chung lại không được đi cùng danh từ "học sinh" ấy.

Sự thật đó không ngừng khiến nó rơi vào tự hỏi, hiện tại nó đang làm cái trò gì vậy? Khi người khác không có cơ hội, cơ hội nằm trong tay nó mà nó lại không biết giữ, có thấy lãng phí không? Có thấy thỏa lòng mình chưa?

Nó không nhắc đến sự mong mỏi của quan huyện và ba sư thầy. Các thầy muốn nó học vì cái gì, nó biết hết ráo. Còn chẳng phải vì tương lai của nó à. Biết là thế nhưng các thầy không bắt ép nó học nhiều, chẳng qua lúc cần nghiêm khắc thì vẫn nghiêm khắc thôi. Ở nơi này, nó thật sự chỉ học để ấm thân mình. Có thế thôi mà nó cũng không nghiêm túc làm được.

Tùng chợt thấy day dứt khôn nguôi, lăn qua rồi lộn lại, trằn trọc chờ bình minh lên. Sáng hôm ấy, nó trưng một khuôn mặt mệt nhoài nghe quan huyện giảng chữ. Quan huyện phát hiện nó vừa mệt mỏi lại mất tập trung, bèn cất sách đi hỏi chuyện.

Tùng lưỡng lự một hồi, rốt cuộc vẫn không nhịn được mà hỏi:

- Thưa thầy, tại sao Chung lại không thể đi học ạ?

Quan huyện đáp:

- Không hẳn là không thể, chỉ là không nên.

Lại còn thế nữa! Tùng suýt chút thì nằm lăn ra đất giãy đành đạch. Nó còn chưa hiểu vì sao lại "không thể" mà giờ đã có thêm "không nên" rồi.

- Vì sao vậy ạ?

Tùng hỏi tiếp.

- Đó là quy định. - Quan huyện trầm ngâm. - Con cái nhà hát xướng không được phép thi khoa cử. Nếu đã không được thi, vậy còn học làm gì.

Tùng sững sờ. Nó không biết đến quy định đó thật dù giờ nó cũng được tính là người học chữ.

- Vì sao ạ? - Nó lí nhí hỏi lại, bàn tay nắm chặt vạt áo, lòng căng thẳng không thôi.

Quan huyện đoán ra nó không đành lòng, chỉ thở dài thốt lên quan niệm của người xưa:

- Hát xướng là nghề thấp kém, bán tiếng hát tiếng cười mua vui cho người đời, sao xứng đặt chung với nghề đọc sách.

Bảo sao có những người bình thường nghe hát thì hăng lắm, nghe xong lại khinh người hát cho bằng được. Thì ra, trong mắt những kẻ tự cho rằng mình có thể thưởng nhạc ấy, người hát chẳng là gì ngoài mấy cô ả chỉ biết bán tiếng cười. Tùng rùng mình, cái so sánh này khác gì ví von ca sĩ trung đại thành gái đứng đường đâu chứ, tuy nó biết nghề nào cũng có góc khuất nhưng ví con gái nhà người ta như thế này thì còn ra thể thống gì?

Đã vậy còn bày đặt ảnh hưởng lên đầu con cháu của họ nữa chứ? Đừng bảo Tùng cái gì mà quy định như vậy là để con cháu được theo nghiệp gia đình, tiếp nối truyền bá văn hóa dân tộc các kiểu. Thôi đi, người phong kiến không nghĩ được nhiều như vậy đâu. Huống chi ở thời điểm văn hóa dân tộc cực thịnh như thế này, họ tự động cho rằng sẽ có người tiếp nối và gìn giữ đến muôn đời chứ không phải như cả nước Việt Nam hiện đại chỉ còn biết nhờ một, hai cá thể độc lập được đưa lên báo đâu.

Hơn nữa, sở thích sở ghét của mỗi người mỗi khác. Nhỡ đâu có người không muốn theo nghiệp của gia đình thì sao? Cái xã hội này chẳng chịu nhường cơ hội thứ hai cho họ, vây chặt họ vào một lối đi duy nhất, như vậy thật không công bằng chút nào, càng không hợp với những tư tưởng Tùng được tiếp xúc và giáo dục nhiều năm.

Không biết lấy đâu ra can đảm, Tùng gân cổ lên cãi bằng được:

- Nhưng họ làm ăn đàng hoàng mà.

Quan huyện không nói gì hồi lâu, ánh mắt giấu giếm bao nỗi trăn trở, cuối cùng chỉ nói được một câu:

- Lê à, ta không cản trò làm bạn với Chung không có nghĩa là ta không muốn làm vậy.

Tùng khựng lại, lòng can đảm của nó tựa thủy triều lên rồi lại xuống, và rồi chẳng còn lại chút gì. Nó không biết nên nói rằng mình đã quen với cảm giác bị phủ định như này, hay nên cảm thán cuộc đời này vẫn chưa chịu tha nó.

Cả cuộc đời này, hai đời liền, có lẽ nó thật sự tự hào vì có một cái đầu thông minh. Nhưng chỉ thông minh, chỉ biết cắm đầu vào học thì được ích gì, nó liên tục bị cuộc đời xoay như chong chóng, chẳng làm được nước non nào đấy thôi. Những tưởng thoát được bà mẹ độc đoán, nó lại gặp nguyên một cái xã hội độc đoán. Ngay đến việc kết bạn với ai còn so đo xứng hay không, vậy nó còn trông chờ gì nữa ở mình đây?

Tùng bặm môi, đột dưng nó muốn khóc mà không được, nghẹn ngào thốt ra lời:

- Thầy ơi, nghề nào chẳng là nghề, có phạm pháp đâu mà phải phân biệt họ với nhau.

Quan huyện nghiêm giọng nhắc nhở:

- Nhưng đó là quy định rồi. Ta không sửa được, trò càng không sửa được.

Quan huyện quay lưng rời khỏi, bỏ lại một mình Tùng bơ vơ nơi sân chùa hắt hiu.

Đêm xuống, nó vẫn cứ thẩn thơ như vậy, một mình nằm co ro trong tấm chăn mỏng. Nó tưởng nó đã có một mái nhà che mưa chắn gió, thì ra từ đầu đến cuối vẫn chỉ có một mình nó đội trời mà thôi.

Thùng... Thùng... Thùng...

Lại là trống đánh canh. Tùng giật mình thảng thốt, phải rồi! Đúng rồi! Dù nơi này có là Đại Việt phồn hoa, dù người cai trị có là vua Lê Thánh Tông lẫy lừng sử sách, thì vẫn không che giấu được sự thật rằng nơi nó đang sinh sống là một xã hội phong kiến, một cái xã hội đề cao giai cấp và phân biệt giai cấp nặng nề.

Người dân ở tầng thấp lắm rồi, mà dưới dân còn có tầng lớp thấp hơn nữa. Nghề hát xướng còn không bằng một người dân bình thường sao? Họ chẳng xứng động vào sách vở ư? Nhưng rõ ràng họ là người gìn giữ và phát triển văn hóa kia mà!

Hiện đại làm gì có ai đọc Tứ Thư Ngũ Kinh, lại chẳng mấy ai thông làu kinh sử. Thế mà người hiện đại vẫn biết đến ca trù, biết đến văn hóa và nghệ thuật dân gian, còn không phải nhờ người trước sẵn sàng giữ gìn và truyền lại à? Và rồi những người làm nghề ấy nhận lại được gì? Một sự mỉa mai không đáng có.

Thật bất công! Ở đâu cũng thật bất công!

"Thiên tử trọng anh hào,

Văn chương giáo nhĩ tào.

Vạn ban giai hạ phẩm,

Duy hữu độc thư cao." [1]

[1] Bài "Thiên tử trọng anh hào" (Vua trọng bậc anh hào) của Uông Thù thời Bắc Tống (Trung Quốc).

Chữ Hán:

天子重英豪

文章教爾曹。

萬般皆下品,

惟有讀書高。

Phiên âm:

Thiên tử trọng anh hào,

Văn chương giáo nhĩ tào.

Vạn ban giai hạ phẩm,

Duy hữu độc thư cao.

Dịch:

Vua trọng bậc anh hào,

Văn chương học tốt vào!

Chi chi đều thấp kém,

Chỉ đọc sách là cao.

(Bản dịch trên thivien.net)

Tùng lẩm bẩm đọc, đọc một lần rồi hai lần, rồi nghiến răng nghiến lợi mà đọc. Một giọt nước mắt chậm rãi lăn xuống gối. Nó bắt đầu thấy sợ, thấy vô lực, bởi cả nơi này chỉ nó mang tư tưởng hiện đại, lại còn là loại tư tưởng bị người phong kiến xem là dị biệt nữa chứ. Nó muốn thay đổi nhưng trớ trêu thay, giờ nó chỉ là một đứa bé sinh sống tại xã hội phong kiến đầy biến động ấy thôi. Nó nhỏ bé, ngay cả một hạt cát cũng không bằng, đâu có thể khuấy động đến cả một thời đại.

- Có cái con mẹ mới "duy hữu độc thư cao"!

Tùng bực bội quệt mặt mình, không nhịn được mà nói tục một câu. Sau giây phút u sầu, đầu nó lóe lên một ý nghĩ không tưởng.

Nếu đã "duy hữu độc thư cao", vậy chẳng bằng nó chủ động theo nghiệp khoa cử, đi thi đi. Dẫu nó không thể đỗ cao, song ít nhiều gì cũng góp chút sức mình để thay đổi hiện thực này. Nó làm quan văn hay võ đều được, nhưng ít nhất, cái tối thiểu nhất, nó muốn tạo điều kiện cho cái gọi là bình đẳng giai cấp xuất hiện, giúp đỡ được một phần nhỏ người của xã hội này là tốt rồi.

Giống như thầy Đồ già vậy, biết là không mấy ai được học chữ nên bắc ghế ngồi giữa sân giảng thơ cho người qua đường.

Tùng ngồi dậy, đẩy tay hé mở cửa sổ. Lại một đêm không ngủ, nắng mai dịu dàng rọi qua khe cửa khép hờ, Tùng chăm chú nhìn khoảnh sân đầy chữ. 

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store