Q1 - Chương 10
Quyển 1: Mười năm đèn sách
Chương 10
Tùng ngồi xổm trên bờ ao, hai tay kéo khóe miệng, nhe răng soi mặt nước. Hàm răng đen sì đều tăm tắp, bóng loáng, nếu nhìn kỹ hơn thì Tùng còn thấy mặt mình phản chiếu từ nước lên răng được luôn cơ.
Tùng xấu hổ bụm miệng lại. Nó mới nhuộm răng không lâu, nhìn kiểu nào cũng không quen nổi. Thẩm mỹ mỗi thời mỗi khác, đời trước răng nó trắng sáng như quảng cáo P/S và Colgate, ngay cả nha sĩ cũng khen răng nó đẹp, đáp ứng đủ tiêu chuẩn của hàm răng đẹp thế kỷ XXI. Thế mà vì phong tục mà đời này nó phải nhuộm răng đen sì như ngậm than để đánh răng nửa năm liền.
Màu đen càng làm nổi bật làn da trắng nhợt vì ít ra sáng của nó. Mỗi lần nhe răng ra nhìn, Tùng cứ tưởng tượng như thể nó chuẩn bị đóng vai phản diện phim kinh dị đình đám nào đó vậy. Nó thở dài thườn thượt, tiện tay vốc nước rửa mặt. Nước ao tóe lên làm ướt chiếc giao lĩnh rộng thùng thình. Bây giờ Tùng mới sực nhớ mình đang mặc cái gì, chỉ đành ngậm ngùi đứng thẳng dậy, tay trái vắt ống tay áo phải và ngược lại.
Mặc mấy năm rồi mà vẫn chưa quen nữa. Tùng vụng về rũ áo, đứng đơ như tượng chờ gió thổi hong khô. Người làng đi ngang còn tưởng nó đang thưởng cảnh ngâm thơ, dáng đứng rất có phong độ của người hay chữ. Chỉ mình Tùng biết trong đầu nó toàn cảnh mình dang hai cánh tay ra, ống tay áo phất phơ bay bay như cánh bướm, và rồi nó nhảy lên vút bay theo gió, về với thời đại nó sinh ra.
Mười sáu năm rồi, nó xa nhà cả mười sáu năm. Tuy rằng nhà của nó vắng người nhưng so với việc sống một mình ở một thời đại xa lạ, thà rằng nó sống một mình trong gia đình ruột thịt thiếu tình thân. Chí ít ở thời đại ấy, tư tưởng của nó không bị toàn xã hội cô lập.
Suốt mười hai năm học hành, không chỉ một lần Tùng dụ Chung học chữ cùng mình. Nhóc Chung béo vậy mà khôn đáo để, vừa nghe mấy lời ngon ngọt là nhóc ta biết thừa Tùng gài mình, quyết không học dù chỉ một chữ. Tức mình, Tùng thẳng thừng hỏi Chung rằng phải làm như nào nhóc béo mới chịu học chữ. Nhóc béo thấy không thuyết phục bạn mình bằng lời lẽ bình thường được, đành thề thốt:
- Mày mà đỗ Tiến sĩ, tao đọc thuộc Tam Tự Kinh cho mày nghe.
Lời thề của nó càng làm Tùng quyết tâm học hành để đi thi khoa cử. Nhiều đêm, dưới ánh nến cam cam, Tùng rời mắt khỏi trang sách cũ mèm, tự hỏi sao mình lại bị đày đọa làm học sinh chịu cảnh thi cử thế này. Nghĩ rồi lại nghĩ, Tùng chợt thấy buồn bực khi nhận ra rằng nó gần như không có cửa làm tướng nữa rồi. Không nói đến chuyện vóc dáng nó không thích hợp, mà căn bản từ ngày nó biết đọc chữ, muốn giúp người khác đọc chữ, cuộc đời đã định sẵn nó phải lều chõng đi thi.
Nhưng biết sao được giờ, vì nó có mục đích khác nên chính nó phải chịu thôi chứ sao. Vậy là thời gian dần trôi, Tùng khoác trên mình áo giao lĩnh màu xanh, ngày ngày cầm một quyển sách, làm ra vẻ mà đứng trên núi ngâm thơ bình văn, chưa gì đã có bóng dáng của một nho sinh văn hay chữ tốt của thời phong kiến.
- Ô kìa, cậu Lê đang làm gì đấy?
Tùng giật mình quay người lại, vội chắp tay sau lưng hòng che đi ống tay áo còn ướt nước. Là Uyên, người thiếu nữ năm xưa bế nó lên chùa gửi gắm các sư thầy. Nàng Uyên ngày đó giờ đã qua đầu ba, nét xuân phơi phới dần phai, chỉ còn lại sự trưởng thành dãi dầu qua năm tháng. Trên lưng nàng địu đứa con còn đỏ hỏn, tay ôm một thúng rau nhà trồng, sau lưng dẫn theo một lũ oắt lít nhít. Uyên lấy chồng từ sớm, cứ cách năm lại đẻ một đứa, giờ đã có tổng bảy người con rồi.
Tính tuổi của Uyên, Tùng còn phải gọi nàng là cô là bác, xưng bản thân là cháu. Vậy mà Uyên lại lễ phép gọi nó là "cậu". Tuy nó chỉ là một nho sinh bình thường nhưng thầy của nó lại là quan huyện nay đã được thăng lên làm tri phủ, đâm ra dân làng kính nó một phép. Ai gặp cũng gọi nó một tiếng "cậu", hai tiếng lại "thưa bẩm", làm Tùng cứ thấy bứt rứt khó chịu sao sao.
Cơ mà nó học khôn rồi, có thấy khó chịu thì cố mà nhịn vào trong, để lộ ra ngoài rồi lại bị người ta quở cho. Tùng chỉ biết gượng cười, gật đầu với Uyên và lũ trẻ xem như chào hỏi, từ tốn trả lời câu hỏi của nàng:
- Ở trong phòng lâu quá, muốn ra đây ngắm cảnh đổi gió thôi.
Tùng cũng thật nể mình biết làm màu. Sự thật rõ ràng vì nó muốn tìm chỗ nào đó để soi hàm răng mới toanh này, khóc thương cho hàm răng trắng bóng nó gìn giữ bấy lâu, cảm thán mình phải hy sinh quá nhiều để hòa nhập cộng đồng. May thay Uyên chưa thấy động tác trợn mắt ngoạc mồm ra soi răng của nó, không kịp chứng kiến cảnh ống tay áo của nó tong tỏng nước. Nàng khẽ cười, hỏi thăm đôi câu rồi dắt đám trẻ rời đi.
Tùng dõi theo bóng lưng nàng. Nàng Uyên của mười sáu năm trước trong mắt Tùng rất cao lớn, rất vĩ đại, mà giờ khi quan sát kỹ, một đứa nhóc năm tuổi đã cao gần đến vai nàng rồi. Tùng không ngờ dáng nàng nhỏ đến vậy, ước chừng còn chưa tới mét rưỡi nữa. Phải chăng do vóc người của dân mình thuở trước vốn nhỏ? Tùng không thắc mắc lâu lắm, nhìn ráng chiều dần buông nơi xa xa, nó vừa ngâm nga vừa thong thả tản bộ về chùa.
Trên chùa, thầy của Tùng đã ngồi đợi trong phòng nó từ lâu. Khoảng vài năm trước, nhờ thành tích xuất sắc mà ông được đề bạt từ tri huyện lên tri phủ. Chức quan lớn hơn, nơi ở xa hơn, công việc cũng nhiều hơn, do đó mà trong một khoảng thời gian dài ông không thể dạy Tùng điều gì. May sao trong làng còn có thầy Đồ, Tùng đến nhà thầy Đồ hoặc ngồi tự học đều được, chí ít lúc ông đến kiểm tra thì bài vở của nó đều không thiếu cái nào.
Tùng bước tới, chắp tay vái:
- Bẩm thầy...
Tri phủ vuốt râu, gật đầu, ra chiều hài lòng lắm. Ông vẫy tay gọi Tùng lại gần, đưa cho nó một chén chè xanh, vờ như không thấy vệt nước trên tay áo mà nó cố giấu, nghiêm giọng hỏi:
- Nghe bảo trò muốn thi Hương năm nay?
Tùng lễ phép vâng dạ. Nó cảm thấy trình độ của mình hiện giờ là vừa đủ đáp ứng tiêu chuẩn cho sĩ tử đi thi rồi, thậm chí hơn hẳn nhiều người là đằng khác. Cha ruột của thằng nhóc xấc xược năm xưa thi mãi còn chưa đỗ Hương cống, trong khi Tùng thuở bốn tuổi nửa chữ Hán bẻ đôi cũng không biết mà đã đọc vanh vách Mạnh Tử rồi. Ai hơn ai kém, chẳng cần phải lấy tuổi tác ra so làm gì, chỉ cần nhìn thôi cũng biết.
Tùng tự mãn lại đắc chí nghĩ ngợi linh tinh, hoàn toàn bỏ qua một sự thật rằng bản chất nó là một người xuyên không, những gì nó đọc được và biết được trước đó đều nhờ nguồn internet phong phú của thời hiện đại.
Tri phủ cũng không phản đối mong muốn của nó, ông vui mừng vì nó chủ động chọn theo nghiệp khoa cử là đằng khác.
- Theo lệ thì mồng 8 tháng 8 bắt đầu vào trường nhất. - Ông hắng giọng, nghiêm túc dặn dò. - Tuy nhiên trước đó trò cần phải làm một bài ám tả.
Tùng đứng thẳng lưng, cứ ngỡ tai mình nghe lầm. Nó không chắc chắn lắm mà hỏi lại:
- Ám gì cơ ạ? Ám... Ám tả?
Tri phủ giải thích ngắn gọn:
- Bài thi để loại bớt người kém.
Tùng hiểu rồi. Nói cách khác, "ám tả" là một bài kiểm tra đầu vào để lọc bớt mấy người học dốt. Tùng chậm rì rì uống một ngụm nước chè, đăng đắng, không hợp khẩu vị thường ngày của nó lắm nhưng vừa đủ để nó tỉnh táo mà suy nghĩ sâu xa thêm. Khoa cử thời phong kiến thế mà cũng chặt chẽ ghê gớm, người xấu không được thi, người ở tầng lớp thấp không được thi, giờ ngay cả người ngu cũng không được thi nốt.
Tri phủ bảo hai hôm nữa sĩ tử sẽ làm bài ám tả. Nội dung của bài ám tả khá đơn giản, nói chung chỉ cần có chữ trong đầu là làm được. Tùng ban đầu còn khá ngơ ngác không biết ám tả là gì, khái niệm này quá xa lạ với nó. Giờ nghe thầy miêu tả kỹ lưỡng, nó bừng tỉnh ngộ. Hóa ra ám tả là chép thuộc lòng chính tả!
Tất cả sĩ tử trong địa phương đều phải tham gia làm bài ám tả, đề bài thường ra là chép thuộc lòng cổ văn trong Tứ Thư hoặc Ngũ Kinh. Không quá khó, bước đầu thuộc nằm lòng Tứ Thư và Ngũ Kinh (bằng chữ Hán) là kiểu gì cũng qua bài ám tả, được vào thi Hương rồi. Đỗ bài thi này không được học vị gì cao siêu hết, được cái người đỗ cao nhất sẽ nhận danh hiệu "đầu xứ", được mọi người công nhận là một nhà nho hay chữ, cũng oách lắm.
Tùng chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng lại hỏi kỹ hơn một vài chi tiết để chuẩn bị cho bài thi. Tuy việc học rồi thi cử với nó đã như cơm bữa, song bối cảnh của hai đời hoàn toàn khác nhau, hệ thống giáo dục cũng một trời một vực. Nó từ hệ chữ cái Latin phải lặn lội học hệ chữ tượng hình lại từ đầu, học lại cả ngữ pháp, rồi cả tập viết thơ với văn cổ, trong đầu phải thuộc lòng cả tỷ tác phẩm trung đại của Trung Quốc và Việt Nam mình. Tùng thề, nếu trần đời này có giải học sinh hiện đại vượt khó nhất, nó mà không được giải thì không ai xứng được giải hết!
- Đây là giấy thông thân cước sắc của trò, giữ cho kỹ nhé.
Sau khi dặn dò xong những điều cần lưu ý trước khi vào trường thi, tri phủ lấy từ trong người ra một tờ giấy mỏng, đưa cho Tùng. Nó cẩn thận nhận lấy bằng cả hai tay, kiểm tra kỹ thông tin bên trên. Giấy thông thân cước sắc giống như căn cước công dân của thời hiện đại vậy, nội dung gồm lý lịch cơ bản như tên họ, ngày tháng năm sinh, quê quán. Đối với người đọc sách còn có một mục là kinh chuyên trị. Kinh ở đây chỉ Ngũ Kinh, chuyên trị hiểu nôm na như chuyên ngành, chuyên môn nghiên cứu vậy.
Hơi khác với đại đa số nho sinh thời này chuyên trị Kinh Thi hoặc Kinh Thư, Tùng lại chuyên trị Kinh Lễ. Nó vẫn nhớ như in bài học đầu đời từ đời trước, không gì khác ngoài câu bất hủ "tiên học lễ, hậu học văn". Trong suy nghĩ của nó, dù ở nơi nào thì điều quan trọng nhất vẫn cần phải hiểu lễ nghĩa, lấy lễ đối đãi với người mới là phải phép.
Chỉ khi nào động miệng không được, nó sẽ tìm cách động tay. Tùng nắm chặt bàn tay như chân gà luộc của mình, trăm phần trăm tin tưởng mình dẫu gầy cũng là một đấng anh hào chân chính.
Ảo tưởng xong, nó lại đọc thông tin trên giấy thông thân cước sắc thêm vài lần nữa để chắc chắn không có vấn đề gì. Để được tham gia khoa cử, Tùng buộc phải có một cái họ đàng hoàng, thế nên nó đã chấp thuận theo họ của tri phủ. Nó đọc cái tên trên giấy, lặng lẽ thở dài một hơi.
Trịnh Văn Lê...
Tùng nhẩm đọc, đột dưng thấy hơi ngượng miệng. Nó, Phan Thanh Tùng, cuối cùng cũng đã sống đến ngày nối nghiệp ông cha, có đệm là một chữ "Văn" rồi. Thôi thì thôi thế, Tùng cất giấy thông thân cước sắc đi, lòng nhủ rằng đời này ông trời cho nó được tiếp nối tinh hoa dân tộc nhiều lắm đây.
- Đã chuẩn bị lều chõng chưa? - Tri phủ ngẫu hứng hỏi.
Tùng đáp:
- Dạ rồi ạ.
Ba sư thầy đã chuẩn bị sẵn cho nó từ đầu năm rồi, nghe đâu cả lều và chõng đều do sư Tâm cặm cụi mấy đêm tự tay làm cho nó. Nhớ đến đây, Tùng lại thấy ấm lòng. Lỡ mà nó không thi được gì lại phụ công các thầy quá.
Tri phủ vuốt râu, gật đầu. Cái gọi là lều chõng đi thi có nghĩa là mỗi học sinh phải chuẩn bị lều và chõng, cõng thêm một hòm sách đựng văn phòng phẩm lên đường đi lấy công danh. Đường đi tìm con chữ chưa bao giờ là dễ dàng, đường để viết tên mình lên bảng vàng càng là gian truân gấp bội. Chẳng những vì những bài thi khó nhằn, mà còn vì con đường đến trường thi nữa.
Tùng cúi đầu nhìn đôi bàn chân trần lấm đất của mình. Ừ thì, trước khi bắt đầu lên đường, nó nên mua một đôi dép cái đã. Trường thi được định tại một bãi đất trống gần đê sông, toàn bộ sĩ tử xứ Kinh Bắc sẽ tập trung ở đó. Mà từ ngôi làng nhỏ nơi Tùng sinh sống cách bãi đất trống đó cả mấy huyện lận, chuyển sang khoảng cách đo hiện tại cũng phải cỡ mấy chục kilomet.
Mà quan trọng là, nó phải đi bộ cả quãng đường đó!
***
Tác giả tám nhảm: Thực ra đến khi viết chương này tôi mới biết ám tả là cái quễ gì, chứ lúc tra tài liệu thì ngơ ra luôn á
Trung bình main của Từ Đông khi xuyên về cổ đại: nhuộm răng đen
Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store