Q1 - Chương 11
Quyển 1: Mười năm đèn sách
Chương 11
Sáng hôm ấy, trời nắng ráo sau ba ngày mưa dầm. Lá cây xanh mướt đọng nước, nhiều đến mức hễ ai nổi hứng đi rung cây thì sẽ rung ra được một trận mưa nhỏ đủ để dội ướt sũng cả người. Ruộng lúa ngập nước, đường đất lầy lội, trong không khí còn vương mùi ẩm ướt và cỏ dại mọc sau mưa.
Tùng xắn quần lên tận trên đùi, chân lõm bõm lội trên con đường vắng quanh co. Đường quê thời cổ đại làm gì có đường lát đá, ngày nắng thì không nói làm gì, cứ đến ngày mưa là khổ. Thời điểm này lại rơi vào khoảng tháng 7 tháng 8 âm lịch, là mùa mưa bão ngoài Bắc Bộ nên mưa nhiều lắm, mưa dầm mưa dề nhiều ngày là chuyện thường tình. Những ngày kiểu này người thường còn ngại ra ngoài, mà năm nay chỉ tội cho những sĩ tử nhà bình thường hoặc nghèo phải bì bõm lội mưa đến trường thi. Tùng đi bộ liên tục năm ngày, cả người đã nhức mỏi đến đau điếng rồi.
Trên lưng nó cõng lều chõng, trước ngực ôm hòm sách nặng trịch văn phòng phẩm, đầu đội một cái nón đủ để che nắng che mưa, dưới chân vẫn đi chân trần. Đúng vậy, nó lại đi chân trần. Không phải là nó chưa mua dép mà ngược lại, nó mua dép rồi, lúc rời làng có đi dép đàng hoàng. Chẳng là trời mưa mấy ngày, Tùng tiếc cái dép mới, thà để bản thân đi đất còn hơn để dép mới bị bẩn. Thành ra nó đi bộ năm ngày, đi đất hết bốn ngày liên tiếp, trở thành dẫn chứng trực tiếp của câu "có cũng như không".
Tùng biết rõ mình ở thời đại này không giàu sang gì, tiền các sư thầy đưa nó để trang trải vài ngày cũng là tiền nhà chùa tích góp nhiều năm nên nó tiếc tiền lắm, tiết kiệm được bao nhiêu thì cố tiết kiệm nhiều hơn thế. Những ngày này nó chẳng làm gì khác ngoài đi lang thang trên đường, đi hỏi đường và mặt dày mày dạn xin cơm ăn, xin ngủ nhờ ở nhà người ta. May mà dân mình thời nào cũng hiền lành chất phác, thấy nó là sĩ tử nghèo thì niềm nở lắm, cho nó ăn nhờ ngủ nhờ thoải mái, còn hỏi han nó có khó chịu ở đâu không nữa. Tùng muốn gửi mấy đồng để cảm tạ mà họ không chịu nhận lấy, chỉ dặn nó thi thật tốt, mai này có làm ông này ông nọ thì mấy nhà từng giúp nó cũng được thơm lây rồi.
Tùng yêu đất nước này quá đi mất.
Tùng đi bộ nhiều ngày đến mệt bở hơi tai, nhiều lần suýt ngất xỉu giữa đường, cuối cùng đến khi mặt trời rọi thẳng đỉnh đầu mới lết xác đến được trường thi. Hôm nay vẫn chưa phải ngày làm bài thi nên khoảng sân trống hoe trống hoác, chỉ có một bên góc sân dựng mấy cái chòi cao, chắc để giám thị ngồi quan sát toàn cảnh trường thi đây mà. Ngoài sân là mấy anh lính canh đi qua đi lại, mặt hằm hằm cau có như thể hôm nay vốn là ngày nghỉ mà giờ phải đứng đây giữa trưa trầy trưa trật để xua mấy ông mọt sách có tính tò mò muốn vào trong tham quan.
Tùng thở hồng hộc ghé quán nước gần trường thi, hỏi thăm chủ quán xem nhà nào cho thuê phòng trọ mà giá cả phải chăng. Chắc bởi nơi này năm nào cũng được chọn tổ chức thi Hương nên quán nước, quán ăn hay quán trọ đều có đủ cả. Mà hình như mấy người mở quán nước đều thích nhiều chuyện, ông chủ quán nước không những chỉ cho Tùng từ đầu đường đến cuối ngõ có những nhà nào cho thuê trọ, mà còn thổi cho nó nghe mấy lời đồn nhà nào làm ăn bát nháo, nhà nào chuyên lừa tiền mấy cậu ấm nữa cơ.
Huyên thuyên một hồi, ông chủ lúc này mới quan sát Tùng từ trên xuống dưới một lượt. Thấy mặt nó trắng nhợt, mồ hôi ướt nhẹp lưng áo, ông chủ thương tình cho nó mấy cái bánh ăn lót dạ, ngoài miệng lại chê nó học cho lắm rồi vác cái thân gầy còm này vào trường thi nhất xong ngày hôm sau ngất thẳng cẳng ra đó, lính tráng tưởng nó chết rồi lại gọi xác ném ra ngoài nghĩa trang cho đấy.
Tùng ngượng ngùng cười cười. Mười hai năm này cuộc đời nó chỉ có đèn với sách, ngoài mấy trò chọc chó trèo cây ra thì nó không có hoạt động nào khác để vận động tay chân cả. Chỉ riêng việc vác đồ lỉnh kỉnh đi bộ năm ngày trời đến trường thi đã là hoạt động ngốn sức nhất nó từng làm cả hai đời rồi. Hơn nữa, mười mấy năm sống trên chùa nó chỉ ăn chay, người nó không gầy như que củi mới là lạ.
Nghĩ thôi lại thấy chán, Tùng ngán ngẩm thở hắt ra, các thầy mãi chẳng chịu dạy nó mấy miếng võ phòng thân gì cả. Đến trường thi Hương đã tốn năm ngày trời rồi, sau này còn phải lên Đông Kinh [1] thi Hội nữa, giữa đường nó bị cướp tiền thì biết bảo vệ bản thân như nào đây?
[1] Tên gọi của kinh thành Thăng Long thời Hậu Lê, nay là thủ đô Hà Nội.
Đương lúc ấy có khách khác ghé quán nước. Người này vóc dáng cao to hùng dũng, thân trên để trần, thân dưới đóng khố, để lộ tấm lưng và hai cánh tay xăm kín hình thuồng luồng. Mặt mày đen sạm, râu ria mọc xồm xoàm trên cằm, mày rậm mắt sáng, đôi mày hơi cau lại nên trông tương đối dữ dằn. Ai không biết còn tưởng giang hồ vào quán siết nợ cũng nên. Khác với tưởng tượng của Tùng, không có vụ siết nợ nào ở đây cả, chỉ có một người đàn ông hướng ngoại vừa bước vào quán đã oang oang nói lớn:
- Ông chủ cho chén nước cái nhở.
- Đây đây! - Ông chủ hớn hở đáp.
Vị khách lạ ung dung ngồi chung bàn với Tùng. Nó co rúm người theo bản năng, im thin thít vờ như mình biết phép tàng hình. Tiếc rằng đối diện nó là một ông anh xăm trổ hướng ngoại, nhác thấy cái hòm sách và lều chõng bên chân nó liền biết nó là ai rồi.
- Ô? Sĩ tử à? Trẻ thế, cậu giỏi đấy.
Ông anh xăm trổ cười sang sảng. Nhưng điệu cười của ông anh không làm cho Tùng cảm thấy khá hơn, chẳng những thế còn suýt dọa nó ngã ngồi xuống đất. Tùng cúi gằm mặt, run run đáp:
- Cũng thường thôi ạ.
Nó khiêm tốn vậy thôi, thế mà ông anh kia cũng hùa theo thật:
- Ờ, thường thật. - Chẳng đợi Tùng kịp sượng người, ông anh nói tiếp. - Văn hay chữ tốt cách mấy cũng trượt thẳng cẳng cả.
Tùng quên luôn cả nỗi sợ. Dù chính nó cũng biết đến câu "học tài thi phận", song là một học sinh đã lì mặt với các bài kiểm tra, nó hiểu rõ chữ "tài" vẫn chiếm nhiều tỷ lệ trong điểm số cuối cùng hơn là chữ "phận". Nếu có lỡ học lệch tủ thì chỉ cần trong đầu còn kiến thức tương quan, không lo không tìm được cơ hội lấy điểm. Nó ngẩng mặt lên, toan đôi co vài câu thì đập vào mắt lại là cái bắp tay đồ sộ của ông anh xăm trổ.
Tùng lại rúm người như cũ. Ông anh chẳng mảy may để ý đến cảm xúc của nó, thấy nó không đáp lời nên tưởng nó đồng tình với mình. Ông anh sướng rơn, lần đầu tiên có một nho sinh chịu nghe mình nói mà không phản bác lời nào.
- Ôi tôi nói chứ, ám tả với thi Hương cách nhau cả dãy núi, chứ thi Hương với thi Hội cách nhau cả cái lạch trời lận đấy. Cả đời tôi sống gần cái trường thi Hương này, thấy không thiếu mấy ông thi đến đầu tóc bạc phơ rồi mà vẫn trượt đâu.
Ông anh xăm trổ chia sẻ thật lòng. Ông chủ quán nước cũng bổ sung mấy chuyện vui buồn những ngày thi cử thế này. Thi đỗ, cả làng cả tổng hò nhau ăn mừng. Thi trượt, rồi thi lại, thi lại mà đỗ thì mừng, còn nếu trượt tiếp thì thật chẳng biết đâu mà lần.
Trước đó Tùng đinh ninh chuyện khoa cử cũng sẽ chẳng ăn nhằm gì với nó. Nó có thể không giỏi ở cái này cái kia, chứ tự nó đã luyện ra cái nết thấy đề không sờn rồi. Thi cử thôi mà, có gì khó đâu chứ? Giờ được tận tai nghe mấy lời này, nó không khỏi suy nghĩ cẩn thận hơn chút. Nếu nó trượt thi Hương rồi sao? Đỗ thi Hương nhưng trượt thi Hội thì phải làm thế nào? Thực lòng Tùng còn chưa từng nghĩ tới chữ "trượt" nữa cơ.
Tùng vỗ đầu. Thôi không nghĩ nữa, còn chưa thi mà cứ nhắc đến trượt mãi, nghe thôi đã thấy không may mắn rồi. Nó ngồi thêm một lúc, trả tiền nước rồi hì hục mang đồ rời đi.
Bỗng nhiên, ông anh xăm trổ xồng xộc chạy lên chặn trước mặt nó, chân thành đề nghị:
- Nếu mai này cu em đỗ đạt, muốn lên kinh thi Hội thì gọi tôi nhé! Đông Kinh đường xá xa xôi, nho sinh yếu bóng vía như cu em dễ bị cướp tiền lắm đó.
Tùng biết thân mình trai tơ gầy yếu, cơ mà "yếu bóng vía" lại là sao nữa? Nó sống dưới hào quang của Phật mười sáu năm rồi, làm gì có ma cỏ nào dám động vào nó đâu chứ! Ấy nhầm, nó vẫn nên kiên định với chủ nghĩa xã hội, kiên quyết bài trừ phong kiến mê tín dị đoan thì hơn. Tùng gật đầu cho có, thầm nhủ chuyện tương lai có lên Đông Kinh hay không thì để sau đi, sau đó nhanh chóng lủi đi mất.
Nghỉ ngơi một ngày, hôm sau là ngày làm bài ám tả. Từ sáng sớm Tùng đã xách theo lều chõng và hòm sách đến trường thi, chờ được đọc đến tên thì để lính canh kiểm tra rà soát một lượt rồi tiến vào. Bài ám tả chưa phải bài thi chính thức, chỉ là một bài thi lọc bớt mấy người chưa biết chữ thôi. Dẫu vậy cũng ít người dám gian dối lắm, người ở đây hầu như ai nấy đều đã nằm lòng Tứ Thư Ngũ Kinh rồi.
Khi này người ta còn chưa phân chia ai ở chỗ nào, mấy thí sinh chơi thân với nhau còn dựng lều tụm lại một chỗ kia kìa. Tùng mạnh dạn đến trước chòi quan sát đặt chõng xuống, để hòm sách trên chõng, nhanh chóng dựng lều rồi chui vào, cẩn thận trải giấy, bút, hộp mực trên hòm sách. Hòm sách ngoài việc là một món đồ đựng văn phòng phẩm, nhu yếu phẩm của sĩ tử, những ngày thi như này nó còn là một chiếc bàn tạm thời nữa.
- Kìa, cậu còn ngồi đó làm gì? Qua nhà bảng xem đề đi thôi.
Một thí sinh để ý thấy Tùng ngoan ngoãn chờ trong lều của mình bèn lên tiếng nhắc nhở. Nhà bảng là nơi dán đề thi, thí sinh phải tự qua đó chép đề mang về chỗ để làm chứ không ai in sẵn đề cho cả. Tùng gãi đầu, nó biết rằng không có chuyện chờ nhận đề phát xuống, nhưng mà hình như phải chờ đến khi được ra hiệu rồi mới đi xem đề được chứ nhỉ.
Cùng lúc ấy vang lên một tiếng trống hiệu. Các thí sinh lũ lượt kéo nhau đến nhà bảng xem đề. Tùng nhỏ người chen lấn trong đám đông, bị xô từ góc này qua góc kia, thiếu chút nữa quên mất đường về. Nơi này tụ tập toàn bộ sĩ tử của cả Kinh Bắc, người đông nghìn nghịt, xô đẩy nhau đứng trước nhà bảng, cố ngóc đầu nhìn giấy dán trên bảng.
Tưởng bài chép chính tả thì đề không dài, thực chất lại có tận bốn, năm câu liền. Miệng Tùng ngậm hộp mực, mắt chăm chú đọc đề, tay chép lia lịa. Nó viết ẩu viết tả, bấm bụng tính đọc được chữ nào thì hay chữ nấy vậy. Chép xong, nó lon ton tìm đường về lều mình, tranh thủ "giải nghĩa" chính con chữ mình vừa chép.
Lại một hồi trống. Bắt đầu tính giờ làm bài.
Tùng vuốt cằm xem đề. Câu đầu tiên, may quá, chỉ có năm chữ "tri sinh ư ưu hoạn". Tùng chau mày, Mạnh Tử à? Mở đầu đã trúng tủ thế này thì kỳ này nó đỗ chắc. Nó hí hửng bắt đầu mài mực, cầm bút chấm mực, ngẫm nghĩ một hồi mới bắt đầu viết.
"Mạnh Tử viết: 'Thuấn phát ư quyến mẫu chi trung; Phó Duyệt cử ư bản trúc chi gian; Giao Cách cử ư ngư diêm chi trung; Quản Di Ngô cử ư sĩ; Tôn Thúc Ngao cử ư hải; Bách Lý Hề cử ư thị.
Cố thiên tương giáng đại nhiệm ư thị nhân dã, tất tiên khổ kỳ tâm chí, lao kỳ cân cốt, ngã kỳ thể phu, không phạp kỳ thân, hành phật loạn kỳ sở vi, sở dĩ động tâm nhẫn tính, tăng ích kỳ sở bất năng.
Nhân hằng quá, nhiên hậu năng cải; khốn ư tâm, hành ư lự, nhi hậu tác; trưng ư sắc, phát ư thanh, nhi hậu dụ.
Nhập, tắc vô pháp gia, bật sĩ; xuất, tắc vô địch quốc, ngoại hoạn giả; quốc hằng vong. Nhiên hậu, tri sinh ư ưu hoạn, nhi tử ư an lạc dã.'"[2]
[2] Dịch:
Mạnh Tử nói: "Ông Thuấn phát khởi ở trong ruộng rẫy; ông Phó Duyệt nổi lên ở gian nhà đất ván; ông Giao Cách nổi lên ở trong chốn cá muối; ông Quản Di Ngô nổi lên ở kẻ học trò; ông Tôn Thúc Ngao nổi lên ở mé biển; ông Bách Lý Hề nổi lên ở chợ búa.
Cho nên, Trời sắp trao trách nhiệm lớn cho các nhân vật ấy, ắt trước hết làm khổ tâm chí của họ, làm mệt nhọc gân cốt của họ, khiến da thịt họ phải đói lả, khiến thân xác họ phải nghèo túng, gây ra những ngang trái rối loạn trong các hành vi của họ, cốt để phát động cái tâm, nhẫn nhục cái tính, cho tăng thêm những gì họ chưa có khả năng.
Người ta thường lầm lỗi rồi sau đó mới có thể cải hóa; có khốn khổ trong lòng, có cân nhắc trong toan tính về sau mới làm nên việc; có phô ra ở vẻ mặt, có phát ra ở tiếng nói, về sau mới trình bày được rõ ràng.
Vào một nước mà không có những nhà biết giữ phép tắc, không có những kẻ sĩ biết phò tá; hướng ra, không có những nước thù địch, không có những mối lo lắng ở bên ngoài; nước ấy thường phải suy vong. Vậy sau đó mới biết sinh tồn do ở ưu hoạn, tử vong do ở an lạc."
(bản dịch trong Tứ Thư Bình Giải, Lý Minh Tuấn)
Cổ văn không sử dụng dấu câu, thời này chẳng ai biết dấu chấm dấu phẩy như nào dẫn tới việc học thuộc lòng thường không dễ dàng lắm. Tuy Tùng rất quý Mạnh Tử, xem Mạnh Tử như tủ của mình thì khi tiếp xúc với việc học thuộc văn bản bằng chữ Hán, lại còn là văn bản không dấu, khỏi phải nói nó đã vật vã đấu tranh đến như nào.
Tùng viết xong câu đầu tiên, hài lòng nhìn chữ viết của mình. Không hổ là người đạt giải "Vở sạch, chữ đẹp" năm đó, ngay cả viết chữ Hán cũng nắn nót đến vậy. Kỳ này nó không vào thi Hương thì thật sự có lỗi với chính chữ của mình luôn đấy.
Tùng đương vui mừng đọc lại câu đầu, ngay sau đó lia mắt xuống đề câu hai. Khoảnh khắc ấy, nụ cười trên mặt nó lập tức sượng ngắt.
Đề câu hai là "Cơ giả dị vi thực, khát giả dị vi ẩm" [3]. Có thể hiểu nôm na rằng "Người đói thì dễ dãi với thức ăn, kẻ khát thì dễ dãi với đồ uống". Nếu chỉ chép mỗi câu này thì chẳng đáng nói, chẳng qua câu này lại là đề bài cho một bài ám tả. Mà bài ám tả lại là chép chính tả cổ văn.
Vậy suy ra, bây giờ nó phải chép nguyên si bối cảnh câu này được nói ra!
Tùng trố mắt muốn lòi tròng, ngỡ ngàng đến thiếu chút nữa trở thành thí sinh đầu tiên ngất ngay trong trường thi bài ám tả.
[3] Lý do main muốn ngất: phải chép hết đống này (không tính phần dịch) BẰNG CHỮ HÁN PHỒN THỂ và KHÔNG CÓ DẤU
Công Tôn Sửu vấn viết: "Phu tử đương lộ ư Tề, Quản Trọng, Yến Tử chi công, khả phục hứa hồ?"
Mạnh Tử viết: "Tử thành Tề nhân dã, tri Quản Trọng, Yến Tử nhi dĩ hỹ. Hoặc vấn hồ Tăng Tây viết: 'Ngô tử dữ Tử Lộ, thục hiền?'
Tăng Tây xúc nhiên viết: 'Ngô tiên tử chi sở úy dã.'
Viết: 'Nhiên, tắc ngô tử dữ Quản Trọng thục hiền?'
Tăng Tây phật nhiên bất duyệt, viết: 'Nhĩ hà tằng tỷ dư ư Quản Trọng? Quản Trọng đắc quân, như bỉ kỳ chuyên dã; hành hồ quốc chính như bỉ kỳ cửu dã; công liệt, như bỉ kỳ ty dã. Nhĩ hà tằng tỷ dư ư thị?'
Viết: "Quản Trọng, Tăng Tây chi sở bất vi dã, nhi tử vi ngã nguyện chi hồ?"
Viết: "Quản Trọng dĩ kỳ quân Bá; Yến Tử dĩ kỳ quân hiển. Quản Trọng, Yến Tử do bất túc vi dư?"
Viết: "Dĩ Tề vượng, do phản thủ dã."
Viết: "Nhược thị, tắc đệ tử chi hoặc tư thậm: thả dĩ Văn Vương chi đức, bách niên nhi hậu băng, do vị hiệp ư thiên hạ. Vũ Vương, Chu Công kế chi, nhiên hậu đại hành. Kim ngôn vượng nhược dị nhiên, tắc Văn Vương bất túc pháp dư?"
Viết: "Văn Vương hà khả đương dã? Do Thang chí ư Võ Đinh, hiền thánh chi quân lục thất tác. Thiên hạ qui Ân cửu hỹ; cửu, tắc nan biến dã. Võ Đinh triều chư hầu, hữu thiên hạ, do vận chi chưởng dã. Trụ chi khứ Võ Đinh vị cửu dã. Kỳ cố gia, di tục, lưu phong, thiện chính, do hữu tồn giả. Hựu hữu Vi tử, Vi Trọng, Vương tử Tỷ Can, Cơ Tử, Giao Cách giai hiền nhân dã, tương dữ phụ tướng chi. Cố cửu nhi hậu thất chi dã. Xích địa mạc phi kỳ hữu dã; nhất dân mạc phi kỳ thần dã. Nhiên nhi Văn Vương do phương bách lý khởi, thị dĩ nan dã."
Tề nhân hữu ngôn viết: "Tuy hữu trí huệ, bất như thừa thế; tuy hữu tư cơ, bất như đãi thời." Kim thời, tắc dị nhiên dã.
"Hạ hậu, Ân, Chu chi thịnh, địa vị hữu quá thiên lý giả dã. Nhi Tề hữu kỳ địa hỹ. Kê minh, cẩu phệ tương văn, nhi đạt hồ tứ cảnh. Nhi Tề hữu kỳ dân hỹ. Địa bất cải, tịch hỹ; dân bất cải, tụ hỹ. Hành nhân chính, nhi vượng, mạc chi năng ngữ dã.
"Thả vương giả chi bất tác, vị hữu sơ ư thử thời giả dã. Dân chi tiều tuỵ ư ngược chính, vị hữu thậm ư thử thời giả dã. Cơ giả dị vi thực, khát giả dị vi ẩm.
"Khổng Tử viết: 'Đức chi lưu hành tốc ư trí bưu nhi truyền mệnh.' Đương kim chi thời, vạn thặng chi quốc hành nhân chính, dân chi duyệt chi, do giải đảo huyền dã. Cố sự bán cổ chi nhân, công tất bội chi. Duy thử thời vi nhiên."
Dịch:
Công Tôn Sửu hỏi rằng: "Thầy được chức vị ở nước Tề, công nghiệp của Quản Trọng, Yến Tử có thể hứa hẹn được lặp lại chăng?"
Mạnh Tử nói: "Ngươi thật là người nước Tề, nên chỉ biết Quản Trọng, Yến Tử mà thôi. Có người đã hỏi Tăng Tây: 'Nhà thầy với Tử Lộ, ai hơn?' Tăng Tây bối rối trả lời: 'Tiên tổ của ta (Tăng Sâm) còn phải nể sợ ông ấy.'
"Người ấy nói: 'Phải, thế nhà thầy với Quản Trọng, ai hơn?' Tăng Tây bực mình không vui, nói: 'Ngươi sao lại so sánh ta với Quản Trọng? Quản Trọng được vua dùng, dường như đó là khả năng riêng của ông ấy; thi hành việc nước dường như đó là việc đã quen lâu rồi; công lao rỡ ràng dường như đó là cách thức thấp hèn. Ngươi sao lại so sánh ta với ông ấy?'"
Mạnh Tử nói: "Đối với Quản Trọng, Tăng Tây chẳng làm theo ông ấy, mà ngươi sao bảo ta mong muốn theo ông ấy?"
Công Tôn Sửu nói: "Quản Trọng đem vua lên bậc Bá chủ, Yến Tử làm cho vua được vẻ vang. Quản Trọng, Yến Tử còn chẳng đủ để làm theo ư?"
Mạnh Tử nói: "Làm cho nước Tề thịnh vượng, giống như trở tay thôi."
Công Tôn Sửu nói: "Như thế thì đệ tử ngờ vực nhiều lắm. Vả lại, Văn Vương đức hạnh là thế, trăm năm sau mới mất, mà còn chưa kết hợp được thiên hạ. Vũ Vương, Chu Công tiếp nối, về sau mới nên việc lớn được. Lời nói ngày nay của thầy làm cho thịnh vượng ví bằng dễ dàng như thế, thì Văn Vương chẳng đủ để bắt chước ư?"
Mạnh Tử nói: "Làm sao có thể sánh kịp Văn Vương được? Từ vua Thang đến vua Võ Đinh, các vua hiền thánh xuất hiện sáu, bảy vị. Thiên hạ theo về nhà Ân đã lâu rồi; lâu thì khó mà thay đổi. Vua Võ Đinh mời chư hầu vào triều, có thiên hạ giống như điều động bàn tay. Vua Trụ cách xa vua Võ Đinh chưa lâu. Những gia tộc cố cựu, những thói tục còn sót, những phong hoá còn truyền, những việc chính trị tốt vẫn còn tồn tại. Lại có Vi Tử, Vi Trọng, Vương tử Tỷ Can, Cơ Tử, Giao Cách đều là những bậc hiền, cùng nhau hỗ trợ. Cho nên lâu về sau mới mất. Một thước đất nào chẳng phải của vua Trụ; một người dân nào chẳng phải bề tôi ông ấy? Vậy nên Văn Vương do mảnh đất trăm dặm khởi lên, chiếm lấy thì khó khăn.
"Người nước Tề có câu nói: 'Tuy có trí sáng suốt, chẳng bằng thừa thế; tuy có nông cụ, chẳng bằng đợi thời.' Thời nay thật dễ dàng vậy.
"Lúc thịnh trị của các vua nhà Hạ, nhà Ân, nhà Chu, đất đai chưa quá ngàn dặm. Thế mà nước Tề có được đất đai thế này. Gà gáy, chó sủa đều được nghe thấy khắp cả bốn phương. Nước Tề lại có dân chúng. Đất đai không cần thay đổi, đã mở mang rồi; dân chúng không cần tăng thêm, đã đông đúc rồi. Thi hành chính trị nhân đạo mà nên nghiệp vương, chẳng có gì ngăn cản nổi.
"Vả lại, bậc minh quân không xuất hiện, chưa có thời nào từ xa xưa đến giờ như vậy. Dân khô héo vì cai trị tàn bạo, chưa từng có thời nào thậm tệ như vậy. Người đói thì dễ dãi với thức ăn, kẻ khát thì dễ dãi với đồ uống. Khổng Tử nói: 'Sự lưu hành của đức hạnh còn nhanh hơn mệnh lệnh truyền rao do cách thông tin bằng người chạy, ngựa ruổi.' Trong thời buổi nay, nước có vạn xe trận mà thi hành chính trị nhân đạo, dân sẽ vui mừng, giống như được cởi khỏi nạn treo ngược. Cho nên, công việc chỉ bằng nửa của người xưa, thành công ắt gấp nhiều hơn. Duy có thời buổi này được như vậy thôi."
(bản dịch trong Tứ Thư Bình Giải, Lý Minh Tuấn)
***
Tác giả tám nhảm: nhân đây xin nhấn mạnh
TRUYỆN HƯ CẤU, KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ THAM KHẢO!
TÁC GIẢ ĐÃ TÌM HIỂU VỀ BỐI CẢNH KHOA CỬ PHONG KIẾN, SẼ CỐ GẮNG BÁM SÁT SỰ THẬT NHƯNG KHÔNG THỂ ĐẢM BẢO ĐÚNG 100%!
TRUYỆN LẤY BỐI CẢNH KHOA CỬ THỜI LÊ SƠ, KHÔNG PHẢI THỜI NGUYỄN!
Nếu tác giả có sai sót ở đâu thì xin hãy nhẹ nhàng chỉ dẫn, đừng vội vàng chỉ trích nhé ❤️🌹😍
Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store