ZingTruyen.Store

[Xuyên/CHLS] Nho Sinh

Q1 - Chương 8

motdongbonhao

Quyển 1: Mười năm đèn sách

Chương 8

Nhà Hậu Lê kéo dài hơn ba trăm năm, bao gồm hai thời kỳ là Lê sơ và Lê Trung Hưng. Trong đó, thời Lê sơ tồn tại chín mươi chín năm, từ đời vua Lê Thái Tổ cho tới đời vua Lê Cung Hoàng. Sau đó, nhà Mạc lên ngôi, cai trị sáu mươi sáu năm rồi bị triều đình của vua Lê chúa Trịnh đuổi lên Cao Bằng, trả lại ngôi cho vua Lê. Từ ấy cho tới năm 1789 là thời kỳ Lê Trung Hưng, hay thường gọi là vua Lê chúa Trịnh.

Nhắc đến Lê sơ, ngoại trừ việc nhớ tới Lê Thái Tổ Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đánh tan quân Minh như thế nào, sự tích Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, còn phải nhắc tới vụ án oan Lệ Chi Viên nổi tiếng và tất nhiên, không thể không kể tới "Hồng Đức thịnh trị". Cách gọi "Hồng Đức thịnh trị" không được đề cập đến trong nhiều tài liệu lịch sử, thật lòng Tùng chỉ nhớ từng thấy cách gọi này trên Wikipedia. Mà Wikipedia lại là trang web mở, ai cũng có thể vào chỉnh sửa thông tin nên rất có thể là một giang cư mận vào viết như vậy.

Lê Thánh Tông, người đã tạo nên "Hồng Đức thịnh trị", một trong những vị vua kiệt xuất nhất lịch sử phong kiến Việt Nam. Tương tự những vị vua kiệt xuất khác, những thành tựu ngài đạt được khi tại vị gần như choán hết cả trang sách giáo khoa Lịch Sử, thậm chí còn hơn thế nữa. Đại Việt dưới sự cai trị của ngài đạt đến đỉnh cao của "thịnh thế". Không chỉ người dân áo cơm không lo, mưa thuận gió hòa, hòa bình kéo dài mà ngay cả Nho học cũng phát triển, nhân tài xuất hiện lớp lớp, phát triển giao thương buôn bán với các nước phương Tây, vân vân.

Hơn thế nữa, bộ luật Hồng Đức (hay còn gọi là Quốc triều hình luật) được biên soạn ngay dưới thời Lê Thánh Tông. Đây có thể coi là bộ luật mang tư tưởng tân tiến bậc nhất thời phong kiến dù vẫn còn đậm tư tưởng Nho giáo, đến nay còn được nhiều nhà luật học đánh giá cao. Thử nghĩ mà xem, ở thời kỳ mà ai cũng ôm tư tưởng "trọng nam khinh nữ", bộ luật Hồng Đức đã có điều khoản chia quyền thừa kế cho con gái rồi, tuy rằng xét về mặt thứ tự thì con trai, cháu trai vẫn được ưu tiên hưởng trước [1]. Lại nói, bộ sách sử nổi tiếng "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" cũng được biên soạn vào những năm Hồng Đức này.

[1] Cụ thể được quy định tại phần Luật Hương hỏa, từ trang 152 đến trang 156.

Đừng hỏi tại sao Tùng biết nhiều như vậy dù nó học chuyên Văn. Bạn cùng bàn của Tùng là một thiếu nữ xinh xắn, là crush của rất nhiều anh bạn chuyên Lý, và cũng của cả cậu bạn lớp chuyên Sử bên cạnh. Bạn chuyên Sử không giỏi tán gái lắm, được cái đọc nhiều sách, thành ra phương thức tán gái của cậu bạn chỉ có một: khoe kiến thức. Cậu bạn rất thích nhà Hậu Lê, tìm hiểu nhà Hậu Lê cũng nhiều nhất. Idol của cậu ta không phải ca sĩ, diễn viên trong showbiz, mà là vua Lê Thánh Tông. Tùng còn nhớ những ngày đi học ở đời trước, cứ giờ ra chơi là cậu bạn lại chạy sang lớp của Tùng, bô lô ba la về nhà Hậu Lê. Từ trang phục, văn hóa, con người, cho tới cả vũ khí và cuộc chiến Nam Bắc triều, Đàng Trong Đàng Ngoài.

Nghe nhiều thành quen. Tùng nghe đến tai cũng biết lì, không nhớ được mấy kiến thức đó mới là lạ.

Chỉ là nó không thể nào ngờ được có một ngày mình được làm nhân vật chính truyện xuyên không, lại còn xuyên về thời Lê Thánh Tông mà nó từng nghe kể rất nhiều. Không giống anh họ nó được trải nghiệm xuyên về thời Lý mà không mang não theo, nó được sống sung sướng ở Đại Việt giàu đẹp của thời Lê sơ. Không có so sánh không có đau thương, anh họ nó phải chịu đau, còn nó được trời thương.

Tùng chỉ mải ảo tưởng về những ngày tháng tươi đẹp sắp tới mà không để ý đến vẻ sa sầm của thầy mình. Tiếp xúc lâu rồi mới biết, Lê thông minh thì thông minh thật, học chữ nào nhớ luôn chữ ấy, không phải đi tuần tự từng bước nhiều cho mất thời gian. Cơ mà lắm tài thì nhiều tật, ngoại trừ cái đầu thông minh được trời phú ra, cả người Lê đều là tật xấu. Nó ham ăn lười làm, cả ngày chỉ biết hết ăn lại nằm, há miệng chờ sung, ngay cả việc đơn giản nhất là ra ngoài vui chơi với đám trẻ trong làng nó cũng không chịu. Cứ thế này thì đừng nói là làm tướng, cho dù nó muốn làm sư cũng bị chùa đóng cửa không cho vào thôi.

Quan huyện lặng lẽ lắc đầu. Đường học với Lê hiện giờ phải gian truân lắm đây, khéo số phận chưa kịp thay đổi, nó đã lơ mơ sống hết một đời rồi. Quan huyện đành tự nhủ thầm, thôi thì dạy nó được bao nhiêu thì dạy đến bấy nhiêu, sau này nó muốn như nào tùy nó, dẫu sao nó có một người thầy làm quan huyện kia mà.

Quan huyện hắng giọng, gặng hỏi lại:

- Bài thơ này trò nghe được ở đâu?

Tùng đơ người. Nó đã cố quên rồi mà thầy cứ nhai lại làm gì không biết! Nó láo liên nhìn xung quanh, trong đầu xoắn lại mớ suy nghĩ lung tung hòng tìm một lời nói dối vừa đủ logic để lấp liếm sự thật. Bất chợt nó bắt gặp ánh nhìn mình chăm chú của quan huyện. Tùng giật thót, vội vã cúi gằm mặt, ngón chân cuộn lại vì căng thẳng.

- Dạ... Thưa... Thưa thầy... - Tùng ấp úng, cố gắng lấp liếm. - Thầy Đồ trong làng có giảng một lần. Trò... Trò nghe được nên ghi nhớ, rồi... rồi ấy ấy thôi ạ.

Thầy Đồ trong làng tuy trượt thi Hội nhưng thi từ ca phú gì ông cũng thuộc làu. Ông chẳng ôm giấc mộng làm quan, thi cho được cái danh hão rồi về quê mở lớp dạy học. Nhưng mà dạy được mấy hôm, thầy Đồ thấy học trò của mình chỉ lắt nhắt có hai, ba đứa nên quyết định cứ cách nửa tháng sẽ bắc ghế ngồi ngoài sân, lớn giọng đọc một bài thơ rồi giảng từng câu. Ai đi ngang mà nghe được đều dừng lại một lúc, đám trẻ con cũng tụm năm tụm ba lanh lảnh đọc theo. Dù rằng người biết chữ không nhiều thêm, được cái người yêu thơ lại tăng khá nhiều.

Tùng từng lén giơ ngón cái mấy lần. Thầy Đồ đúng chuẩn nhà giáo nhân dân của thời kỳ phong kiến, không phải ai cũng sẵn lòng san sẻ con chữ mình biết như ông. Thời này coi trọng tôn sư trọng đạo, muốn đi học phải biếu xén đủ đường, không phải cứ muốn là được đi học luôn thôi đâu. Mà học phí cũng cao, mua đồ dùng học tập phải dùng tiền, đi thi lại càng phải đóng phí, thành ra nhà nghèo đều không thể đi học.

- Thực thế ư?

Quan huyện ngờ ngợ nhưng vẫn không tin lắm. Nhất là khi thấy điệu bộ giấu đầu lòi đuôi của thằng Lê, ông càng không tin mấy lời lý do lý trấu nó.

- Dạ... - Tùng ngượng chín mặt. Để hoàn thiện một lời nói dối cần vô vàn những lời nói dối khác chắp vào vá lại thành một sự thật méo mó, mà nó ngay cả nói dối cũng không thạo nữa là tìm một đống lời nói dối khác bù vào.

Nó co quắp đứng như trời trồng. Nó nào đã phải đứng trong hoàn cảnh này bao giờ. Đời trước, nó chỉ cần tập trung vào việc học hành, chuyện trong chuyện ngoài sẽ có người khác lo cho nó. Ai cũng bảo nó phải chăm học, học cho ấm thân nó, nhưng nó lại nghĩ học cho mình là một, học cho danh dự của gia đình mới là mười.

Còn lần này không ai giúp nó cả. Một mình nó ở nơi này phải che giấu sự thật rằng nó là người từ tương lai xuyên không đến đây, âu cũng chỉ để lịch sử đi đúng quỹ đạo. Tùng ỉu xìu, liên tục khẳng định rằng mình nghe thầy Đồ giảng nên mới biết, cho tới khi quan huyện nói đúng trọng tâm:

- Ta đã dạy trò những chữ này đâu.

Tùng sững sờ hồi lâu, mắt nhìn đăm đăm những chữ mình viết. Đều là chữ Hán phức tạp, nhiều nét, phải học rất lâu rồi mới có thể viết được. Tùng nắm chặt vạt áo, tim đập thình thịch như trống trận. Xong rồi! Hỏng hết mẹ rồi! Tùng nghiến răng ken két, vin vào lý do trước đó:

- Thầy Đồ dạy ạ.

Nói thế cũng không sai. Tùng thật sự từng đi tìm thầy Đồ xin giảng cho vài chữ, trong đó có những chữ từ bài thơ này. Nó của ban ngày không ngu, dại gì mà đọc nguyên câu thơ của người ta ra. Nó cố tình tách chữ, hỏi chữ này đọc như này thì nghĩa là gì, viết như nào rồi cứ thế ráp lại ra bài thơ đúng chính tả. Các bước chép thơ bằng chữ Hán của nó dài loằng ngoằng, nếu không vì tình yêu thơ vượt thời gian, nó đã chẳng tốn công tốn sức đến vậy.

Nó thật ngu dốt, biết vậy đã chép bằng chữ Quốc ngữ... À thôi, biết vậy đã chẳng chép gì thì hơn. Tùng lắc đầu, chép bằng chữ nào cũng củ khoai như nhau thôi.

Tùng nuốt nước mắt mặn chát như nước Biển Đông vào tận đáy lòng, không ngừng tự hỏi vì sao mình lại làm vậy. Chẳng lẽ thấy đêm ấy sân chùa sáng trăng, trống canh từng đợt, sương khuya lượn lờ, một mình mình đón gió đêm dưới biển sao mênh mông nên đột ngột thức tỉnh bản năng thi sĩ? Tùng lại lắc đầu nguầy nguậy.

Quan huyện thấy nó cứ lúc lắc cái đầu như con bò lần đầu đeo chuông, chau mày. Thằng Lê càng lúc càng kỳ lạ, hoặc do tiếp xúc lâu rồi nên ông nhìn ra được một chút con người thật của Lê, một chút gì đó không giống với người nơi này.

- Chăm học là tốt, có công mài sắt có ngày nên kim. Chẳng qua cái gì cũng nên từ từ thôi, trẻ con ở độ tuổi của trò chưa thể hiểu thấu ý thi nhân. - Quan huyện nói, không đào sâu chuyện Tùng chép được nguyên bài thơ bằng chữ Hán như thế nào nữa.

Tùng ngoảnh mặt bĩu môi, ngoài mặt nó là một đứa trẻ bốn tuổi, thực chất nó là một nam sinh chuyên Văn mười bảy tuổi lận... Hay hai mốt nhỉ? Tùng không chắc nên cộng tuổi thật và số năm xuyên không không, cơ mà điều đó không quan trọng, quan trọng là tuổi tâm lý của nó già gấp mấy lần tuổi của cơ thể này đó!

Tùng chỉ dám chê bai trong lòng, miệng vẫn ngoan ngoãn vâng dạ. Nó bấm bụng sắp tới sẽ giấu giỏi ít nhiều, đợi biết được nhiều chữ hơn, nó thích chép thơ nào thì chép, coi như luyện tập cũng được.

Buổi sáng, quan huyện giảng cho nó mấy chữ mới, giao bài tập rồi rời đi trong vội vàng. Ông làm quan đứng đầu một huyện, chuyện lớn chuyện nhỏ trong huyện ông đều phải xem rồi xử lý. Làm không tốt thì bị quan trên hỏi, lỡ mà gặp trúng mấy ông không ưa mình, đã không giữ nổi cái chức thì thôi, mất mạng càng là dễ như chơi. Đừng nghĩ làm quan nhàn lắm, sáng dậy sớm hơn gà, tối ngủ muộn hơn chó, làm quần quật cả tuần, độ khổ không kém gì nô lệ tư bản của hiện đại.

Tùng cúi đầu nhìn xấp phóng mới, tính ra nó học chữ xong làm một thằng vô dụng tiếp cũng không tệ. Chưa gì nó đã thấy tương lai làm tướng cũng không dễ dàng gì cho cam, khéo còn ăn khổ nhiều hơn quan địa phương.

Tùng chán rồi. Tùng chỉ muốn lười thôi.

Bao giờ nó có phúc xuyên về thời chiến, bảo nó gác bút cầm súng nó chịu liền. Chứ ở cái thời bình như này thì đánh nhau làm chó gì, ăn sung mặc sướng chờ chết già mới là cuộc đời đáng sống.

Thình lình, Tùng hơi ngơ ra, hình như nó quên cái gì đó. Thời Lê Thánh Tông có chiến tranh không nhỉ? Nó gãi tai gãi má, nghĩ mãi mà chẳng nhớ nổi, chỉ đành nhún vai bỏ sau đầu. Tùng lật đật đi xóa chữ trên sân, xong xuôi lại cầm cành cây ngồi ngẩn người trên đất.

***

Hôm nay Chung béo lại lon ton chạy đến tìm Lê chơi. Nhóc béo này quý Lê lắm, nhất là từ hồi hai đứa đứng chung chiến tuyến đấu võ mồm với mụ đàn bà chanh chua và thằng cháu xấc xược của mụ. Với nhóc Chung béo, Lê là người bạn thân thiết nhất của nhóc từ thời cha sinh mẹ đẻ đến giờ luôn! Thế là cứ hễ Lê xuất hiện ở đâu, nhóc sẽ bám theo tới đó như cái đuôi mũm mĩm. Lê làm gì, nhóc sẽ ngồi bên cạnh nhìn hoặc ngược lại.

Chẳng hạn như bây giờ, Lê ngồi tập viết chữ, Chung béo ngồi cạnh nghịch đất, không làm phiền nó học. Tùng vốn muốn ườn ra nằm lười, nhưng ngoảnh lại thấy một thằng nhóc cứ ngồi canh mình, nó chỉ biết nắm chặt cành cây, tiếp tục tập viết.

Tùng không có thói quen lười biếng trước mặt người khác. Nó không làm thì không nói làm gì, nó đã làm rồi mà bên cạnh còn có người nhìn thì nó không cách nào dừng được. Tùng thở ngắn than dài, tình huống hiện tại làm nó có cảm giác mẹ và bà nội đang ngồi bên cạnh xem nó làm bài tập, khiến nó muốn cựa quậy thôi cũng khó.

- Muốn học không? - Tùng không nhịn nổi nữa, quay phắt sang hỏi Chung. - Học đi, tao dạy cho.

Tùng nghĩ rất đơn giản, nó không thể để một mình mình chịu nỗi khổ bị chữ Hán hành hạ được, nhất định phải có một đứa bạn có khổ cùng chịu, có hoạn nạn cùng chia. Vừa hay nhóc Chung béo là đứa duy nhất phù hợp yêu cầu của nó bởi vì hai đứa đủ thân để xưng "mày - tao" rồi. Vả lại, chẳng phải có câu học thầy không tày học bạn đó sao.

Tùng mơ đẹp lắm, nào ngờ đáp lại nó là những cú lắc đầu muốn bay não của Chung. Nhóc béo sợ tái mặt, biểu cảm hãi hùng hệt như nhân vật chính phim kinh dị khi lần đầu gặp phản diện.

- Tao hả? Không cần đâu, tao nhìn thôi.

Tùng thấy lạ, nhỏ giọng gặng hỏi lại:

- Sao không? Thể nào chả phải học.

Trong suy nghĩ cố hữu của nó, đứa trẻ nào mà chẳng được đi học. Không học lúc này thì học lúc khác, kiểu gì cũng phải ngồi vào bàn học, suy cho cùng cả thế giới này chỉ có nó mới không thèm học thôi.

- Không được đâu, mẹ tao là cô đào.

"Cô đào" là cách gọi ca nương. Vốn ca nương còn được gọi là "ả đào" nhưng chữ "ả" nghe nó hư hỏng, giống gái mại dâm quá nên mới đọc chệch đi là "cô". Cô đào giống như nghề ca sĩ của thời hiện đại vậy, chẳng qua chỉ hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc dân gian, cụ thể ra là ca trù. Thời phong kiến, ca trù được xem là hạng mục giải trí phổ biến nhất, từ quý tộc, quan lại cho tới dân thường đều thích xem. Tuy nhiên, ở dân gian, ca trù thường chỉ được biểu diễn vào các dịp lễ hội tại sân đình làng chứ không phải cứ thích lúc nào là được xem lúc ấy. Tùng xuyên tới đây bốn năm rồi mà chỉ có hội đình làng năm nay mới được nghe và biết ca trù là gì.

Tiếc rằng lúc đó nó không biết mình xuyên về quá khứ mấy trăm năm trước. Nếu biết, có lẽ nó sẽ nán lại lâu hơn, cảm nhận nhiều hơn bầu không khí văn hóa nghệ thuật dân gian mà tương lai nó ít hoặc gần như không tiếp xúc tới.

Tùng không hiểu. Cứ cho rằng cô đào là ca sĩ thời phong kiến đi, vậy thì tại sao con của ca sĩ lại không thể đi học được nhỉ? Nó ngoẹo đầu, thành thật nhả ra một chữ:

- Thì?

Nhóc Chung béo trả lời rất đương nhiên:

- Thì tao không được đi học thôi.

Thấy Lê sững người, dường như vẫn không hiểu lời nhóc, Chung quẹt bụi đất trên tay lên chiếc áo mỏng rách từa lưa, nghiêm túc đối mặt với bạn mình.

- Đúng ra tao còn không xứng làm bạn mày ấy chứ. - Nhóc béo buồn thiu. - Mày là người đọc sách, còn tao chỉ là con hát thôi.

***

Tác giả tám nhảm: Cứ đà viết này không biết đến Tết được bao nhiêu chương he XD

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store