ZingTruyen.Store

Tong Hop Van Mau Lop 12

Chi tiết tiếng sáo trong " Vợ chồng A Phủ"

- Được nhắc đến nhiều lần

- Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi

- Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng

- Mà tiếng sao gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đương

- Mị vẫn nghe tiếng sao đưa Mị đi theo những cuộc chơi,..

Ý nghĩa:

- Tiếng sao biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi.

- Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay gọi, khơi gợi lòng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mĩ

- Có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân

- Thể hiện tư tưởng của tác phẩm: sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên là giá trị nhân đạo

Gợi ý:

- Tiếng sáo mở ra một không gian xa xôi của núi rừng tây bắc. Tiếng sáo gọi bạn, gọi người yêu là nét đẹp văn hoá của người dân miền núi

- Tiếng sáo đại diện cho tài năng của con người. "Mị thổi sáo giỏi", "Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đẽ thổi sáo đi theo Mị"

- Tiếng sáo kêu gợi quá khứ tươi đẹp ,ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, đồng thời tiếng sáo là chất xúc tác trực tiếp khơi gợi sức sống tiềm tàng của Mị "Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi", "Mị vùng bước đi".

- Tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật đặc biệt tố cáo bản chất của giai cấp thống trị thực dân phong kiến miền núi, cự tuyệt quyền sống, quyền làm người của con người

=> Nếu tiếng chân ngựa đạp vào vách là sự lên tiếng của hiện thực phũ phàng thì tiếng sao lại là hiện thân của những ước mơ, hoài niệm.

Bài văn mẫu ý nghĩa chi tiết tiếng sáo trong Vợchồng A Phủ

Vợ chồng A Phủ là một trong số không nhiều những tác phẩm văn xuôi viết thành công trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Có thể xem đó là gương mặt tiêu biểu của văn học thời đại mà cả dân tộc cùng "rũ bùn đứng dậy sáng lòa". Trong đó chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân là lát cắt ngang giữa nhân tế bào của tác phẩm. Vẻ đẹp nội dung, nghệ thuật cùng lộ ra từ chi tiết ấy.

Trước hết, chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo nhằm khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Tiếng sáo mùa xuân vốn là linh hồn của đời sống tinh thần vùng Tây bắc. Nó rất quen thuộc, gần gũi, không có gì mới lạ, đã được tác giả sử dụng hiệu quả linh diệu như chiếc móng vuốt của thần Kim Quy, như câu thần chú Vừng ơi ... của Alibaba vậy. Nhờ chiếc lẫy thần ấy mà cung nỏ nhà vua bắn một phát chết hàng vạn tên xâm lược; nhờ tiếng sáo đêm tình mùa xuân đó mà nhà văn mở được cánh cửa tâm hồn nhân vật Mỵ đã im ỉm khóa suốt bao nhiêu năm trời. Cứ nhìn cái dáng "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", nhìn cái cách kéo lê tấm thân của Mỵ từ mùa này sang mùa khác, từ năm này sang năm khác làm việc như một cái máy, cứ nhìn cái sự đêm đến "Mỵ chỉ còn biết thức với lửa", đêm nào cũng vậy, dù cho có bị A Sử ngứa tay đánh đập hay có người chết ngay ở đó... (không có phản ứng gì thì người ta chỉ có thể nghĩ rằng cô sẽ mãi câm lặng như tảng đá cho đến ngày chết rũ xương ở đây thì thôi...

Vậy mà từ khi nghe đầu núi lấp ló có tiếng sáo rủ bạn đi chơi của ai đó, "Mỵ lại thiết tha bồi hồi". Tâm hồn Mỵ bắt gặp tiếng sáo, đã bắt đầu cựa quậy, đã bắt đầu biết cảm nhận, đã xúc động. Đã sống lại thật rồi! Tiếng sáo mùa xuân nhẹ nhàng, mỏng tang, vu vơ mà thần diệu tựa thuốc thánh Cam lộ. Tưới đến đâu thì hồi sinh sự sống, tình yêu đến đó... Kìa, Mỵ đang "nhẩm thầm bài hát của người thổi sáo". Mỵ đang hòa lòng mình vào không khí mùa xuân tuổi trẻ của những cuộc chơi đánh pao, đánh quay. Mỵ đang sống với tâm trạng yêu đương trong những bài hát. Dòng nước mát hiếm hoi đã len rỉ vào tâm hồn đang khô hạn nứt nẻ của Mỵ rồi thì lẽ nào không mở lòng?! Tiếng sáo mùa xuân đến và đã neo đậu luôn trong lòng Mỵ, rồi ám ảnh không rời: "Tai Mỵ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng". Rồi như một phản ứng dây chuyền, đồng lọat cả một quá khứ của tuổi trẻ hiện về, Mỵ lại được sống đắm chìm trong thời tuổi trẻ đầy say mê của mình: "... Mỵ thổi lá cũng hay như thổi sáo.... bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mỵ"... Tiếng sáo dập dìu thiết tha gọi ai đầu làng mà đánh thức cả một miền hồi ức, kỷ niệm ùa về tươi rói. Rồi tiếng sáo ngày một gần, ngày một da diết hơn; ngồi một mình trong xó bếp nhưng Mỵ nhận rõ "Tiếng sáo goị bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.. Mỵ thấy phơi phới trở lại...". Mùa xuân đã thực sự về, xốn xang trong lòng: "Mỵ vui sướng như những đêm xuân ngày trước. Mỵ vẫn còn trẻ, Mỵ muốn đi chơi...". Rồi theo phép biện chứng của tâm hồn, cái hiện thực đầy say mê của quá khứ và tiếng sáo gọi bạn yêu kia đã trở thành thái cực tương phản của cảnh sống thực tại. Mỵ so sánh đối chiếu, soi xét lại cái hiện thực mà cô đã và đang phải sống, thấy nó thật phi lý, không thể chấp nhận. Tâm lý Mỵ nảy sinh một sự phản ứng bất ngờ mà thống nhất: Nghĩ đến nắm lá ngón... Nhìn ở góc độ sự sống cho thể xác, đây là một bước lùi, tiêu cực. Nhưng nhìn ở góc độ đời sống tinh thần, nhìn ở SỰ SỐNG ĐÚNG Ý NGHĨA LÀ CUỘC SỐNG CON NGƯỜI, đây là một dấu hiệu đáng mừng ở Mỵ. Bởi vì đó chính là sự thức tỉnh đầy tính nhân văn: Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt, thà chết trong một sự khẳng định quyết liệt ý nghĩa đúng đắn cuộc sống của mình còn hơn phải sống kiếp trâu ngựa suốt cả một đời. Nhờ tiếng sáo mùa xuân mà Mỵ có được sự thức tỉnh đó.

Tuy nhiên, một cô gái mê tiếng sáo, yêu đời như Mỵ không thể lùi sâu vào mãi góc chết. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình vẫn "lửng lơ bay ngoài đường", và trong đầu Mỵ vẫn "rập rờn tiếng sáo" thì làm sao Mỵ có thể hững hờ, làm sao Mỵ có thể ăn lá ngón? Thay vào đó, cô "lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát". Mỵ dằn lòng xuống, cái đắng cay bị kìm xuống thì cái nồng nàn của hơi men vàcái đắm say của "tiếng sáo gọi bạn yêu" càng thôi thúc: "Mỵ đứng dậy xắn thêm mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng" như để tự thắp sáng đời mình, như để khêu to hơn ngọn lửa tình yêu đang chập chờn trong ý thức của Mỵ. Hành động này lại tạo ra niềm tin để có hành động tiếp theo mạnh mẽ hơn: Mỵ quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt trên vách, sửa soạn đi chơi, bất chấp sự có mặt của A Sử (dù hắn là hiện thân trực tiếp và thường trực của cái ác, là hung thần đã nghiền nát tất cả hạnh phúc, sự sống của đời cô. Mỵ hoàn toàn không hề đếm xỉa đến hiện thực nữa. Lòng mải mê đi theo tiếng sáo, tay cô làm, chân cô bước như kẻ mộng du. Thậm chí cho đến khi đã bị trói bằng cả một thúng dây đay, bằng cả mái tóc dài của chính Mỵ, thân xác đau đớn cùng cực, thì tiếng sáo vẫn bám riết tâm hồn Mỵ. Suốt đêm dài... suốt đêm... Mỵ chỉ còn nghe tiếng sáo... Khi khát vọng tự do, khát vọng tình yêu đã cháy lên thì hiện thực kia làm sao đủ sức ngăn cản được sự bay bổng của tâm hồn?!.

Cũng có lúc tiếng chân ngựa đạp vách kéo Mỵ về thực tại. "Mỵ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Con ngựa còn có lúc đứng gãi chân, nhai cỏ, còn..." nhưng "tiếng sáo vẫn đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi, những đám chơi"... Lúc chừng đã khuya, Mỵ còn tưởng tượng được cuộc chơi xuân đêm nay đã đến lúc "trai làng đang đến bên vách làm hiệu rủ người yêu dỡ vách rừng chơi. Mỵ đã nín khóc, Mỵ lại thiết tha bồi hồi". Tiếng sáo đã trở thành điểm tựa và Mỵ đã vững vàng hơn.

Chưa bao giờ là một nhà văn lãng mạn nhưng những dòng này, những trang này, thế giới tâm trạng nhân vật Mỵ lúc này và toàn bộ chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân dẫu thực đến độ điển hình nó vẫn là những trang văn cực kỳ lãng mạn, đẹp đẽ mê ly. Với chi tiết tiếng sáo, không những nhà văn bật mở được thế giới tâm hồn của một nhân vật khổ đau đã nhầu nát, tê dại vì bị giam hãm trong bóng ma và thế lực phong kiến miền núi, đang thức dậy, đang phát triển với những cung bậc tinh tế, phức tạp, tuần tự có, đột phá có, có cả những bước tiến lùi đan xen (nhưng đúng quy luật tâm lý mà còn khám phá, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tài hoa nghệ sỹ của người lao động dân tộc Mèo. Dẫu cho thể xác có bị vùi dập bao nhiêu thì lòng yêu đời, yêu hạnh phúc, yêu tiếng sáo mùa xuân của người người Mèo vẫn không gì có thể dập tắt được. Đó là bức thông điệp quan trọng nhất mà nhà văn gửi được đến bạn đọc qua tác phẩm này. Hơn nữa nó còn hé mở cả một sức mạnh tiềm ẩn, báo hiệu khả năng cách mạng trong nhân vật Mỵ và con người Tây Bắc.

Tiếng sáo đêm tình mùa xuân thực sự là một chi tiết đầy sức quyến rũ, là nét hoa văn độc đáo nhất trên toàn tấm thảm hoa Tây Bắc. Giả sử không có tiếng sáo mùa xuân thì có lẽ tâm hồn Mỵ không bao giờ thức dậy được (như trên đã nói). Không có nó, cuộc sống Tây Bắc còn lại là gì? - Chắc chỉ còn lại "tiếng xập xình cúng ma" nhận mặt người vay nợ lãi hay làm nô lệ cho bọn chúa đất. Tiếng sáo dập dìu suốt đêm đã xua đi cái hoang lạnh, cái đói rách của núi rừng, cái âm u của cuộc sống nô lệ, và gọi về cái ấm áp, cái đa tình đáng yêu, chất nghệ sỹ của lòng người Tấy bắc. Có tiếng sáo gọi bạn đầu làng, tiếng sáo vang vọng từ núi này sang núi nọ và "những chiếc váy hoa phơi trên những tảng đá xòe như con bướm sặc sỡ" núi rừng Tây bẳc trở nên thơ mộng, quyến rũ và say mê biết bao!

Cảm ơn nhà văn đã giúp người đọc mọi miền Tổ quốc được cảm nhận, thưởng thức những vẻ đẹp trong sáng, thi vị của con người và núi rừng miền Tây thân yêu của chúng ta. Đọc đi đọc lại nhiều lần, tiếng sáo vẫn cứ say mê, ám ảnh lạ thường, lan truyền từ người trong truyện đến người viết truyện, sang người đọc truyện:

"Ngoài núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi..."
" Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường..."
" Tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi, những đám chơi..."
....

Ta như nghe được cả những tiếng reo vui náo nức của nhà văn khi mùa xuân đến được kìm nén trong nhiều câu văn: "Những đêm tình mùa xuân đã đến"... Ta như nghe được cả sự mời gọi thiết tha của người nghệ sĩ ấy trong từng dòng văn miêu tả tài hoa về tiếng sáo ấy rằng: Hỡi những ai chưa một lần đến Tây Bắc, hãy lên đây để được sống trong không khí của những đêm xuân nồng nàn men rượu và dập dìu tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường, tiếng sáo văng vẳng đầu nương, vang vọng qua những vách núi thành âm điệu đặc trưng của nền văn hóa Tây bắc. Tiếng sáo ấy cũng là tiếng lòng nồng nàn như rượu đêm xuân của nhà văn đối với núi rừng và đồng bào các dân tộc vùng rẻo cao Tây bắc nói riêng, với đất nước Việt Nam nói chung.

Vẫn còn chưa đủ. Phải nói thêm: Chi tiết ấy còn là sản phẩm của một sự am tường cặn kẽ, tinh thông về phong tục, lối sống của đồng bào rẻo cao. Là sản phẩm của một ngòi bút tài hoa: văn như nhạc, như tranh, tải được cả màu sắc, hương vị, âm điệu, linh hồn của núi rừng Tây Bắc. Trong sáng, hồn nhiên mà tình tứ, réo rắt da diết, mà khỏe khoắn lạ thường.

Thật trọn vẹn, ngọt ngào và đầy dư vị!

Một chi tiết nghệ thuật như thế nó dư sức làm rường cột cho cả một tác phẩm, đánh dấu sự trưởng thành của chặng đường sáng tác, làm nên tầm cao, đóng góp riêng của nhà văn Tô Hoài cho nên văn học, văn hóa nước nhà.

Nay nhà văn Tô Hoài đã đi xa nhưng chắc chắn tiếng sáo đêm tình mùa xuân của bản Mèo xa lắc vẫn vi vút, vẫn lửng lơ ám ảnh trong tâm trí bao thế hệ người đọc mọi miền đất nước. Có thể nó còn vọng mãi sang thế giới bên kia ru Người giấc ngủ ngàn năm; và biết đâu cõi âm cũng ... lóe lên tia sáng ấm mùa xuân.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store