ZingTruyen.Store

Tam Ly Hoc Can Ban

7. Não bộ bị tách đôi: thăm dò hai bán cầu não

Lần đầu tiên các cơn động kinh xảy ra, Cindy Gluccles đã nghĩ rằng bác sĩ của cô sẽ có thể cho cô một thứ thuốc để ngăn chặn chúng tái phát. Cả bác sĩ điều trị lẫn bác sĩ chuyên về nội thần kinh của cô đều lạc quan cho rằng đa số các trường hợp động kinh đều có thể bị khống chế nếu dùng đúng thuốc. Nhưng các cơn động kinh của cô ngày càng tệ hơn và xảy thường xuyên hơn, và dường như không còn biện pháp chữa trị bằng thuốc nào đem lại hiệu quả. Khám nghiệm kỹ hơn cho thấy các cơn động kinh được phát sinh do xung điện đột ngột tăng lên khá nhiều trong một bán cầu não, sau đó xung điện tràn sang bán cầu não còn lại. Cuối cùng, các bác sĩ đã quyết định chọn biện pháp tối hậu: phẫu thuật cắt bỏ bó thần kinh nối liền 2 bán cầu não. Một cách gần như thần kỳ, các cơn động kinh đã dứt hẳn. Rõ ràng cuộc giải phẫu đã thành công - nhưng liệu Cindy có còn là con người cũ như trước khi được giải phẫu không?

Vấn đề này đã khơi gợi rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu về não bộ và thực tế đã mang lại giải Nobel cho Roger Sperry. Sperry, cùng với một nhóm đồng nghiệp, đã khảo sát hành vi của những bệnh nhân từng được phẫu thuật cắt bỏ thể chai, tức bó sợi thần kinh nôi 2 bán cầu não. Nhóm nghiên cứu đã thấy về mọi mặt không có biến đổi gì lớn về cá tính hoặc về mức độ thông minh.

Tuy nhiên, các bệnh nhân cá biệt như Cindy Gluccles, được gọi là bệnh nhân bị tách đôi não bộ (split-brain patient, tức 2 bán cầu não thật sự hoạt động độc lập với nhau khiến 2 nửa người mất sự phối hợp) thỉnh thoảng lại có vài hành vi thật sự bất thường. Thí dụ như một bệnh nhân đã báo cáo rằng trong khi một tay ông ta kéo quần ông ta xuống thì tay kia lại kéo lên. Ngoài ra ông ta còn kể rằng tay trái ông ta túm lấy vợ ông ta lắc thật mạnh, trong khi tay phải cố giúp bà ấy thoát khỏi tay trái báng cách khống chế tay trái.

Tuy nhiên, hứng thú dành cho việc tìm hiểu hành vi kỳ lạ thi thoảng mới xảy ra này không mấy sâu sắc vì hiếm khi có người bệnh bị tách đôi não bộ có hành vi kỳ lạ để cung cấp thông tin cho cuộc nghiên cứu về việc hai bán cầu não vận hành độc lập với nhau. Vì vậy Sperry đã xây dựng một số kỹ thuật sáng tạo để nghiên cứu phương thức hoạt động của một bán cầu não. Trong một tiến trình thực nghiệm, các đối tượng nghiên cứu đã bị bịt mắt (blindfolded) được phép dùng tay mặt sờ một vật rồi được yêu cầu nói lên tên gọi vật ấy. Bởi vì nửa phải của cơ thể kết nối với bán cầu não trái - tức bán cầu não chịu trách nhiệm nhiều nhất về khả năng ngôn ngữ - người bệnh bị tách đôi não bộ có khả năng nói được tên vật ấy. Nhưng khi dùng tay trái sờ vào vật, thì các đối tượng nghiên cứu đã bịt mắt không nói được tên vật ấy.

Ngoài ra, thông tin về vật ấy đã được não bộ ghi nhận vì khi bỏ khăn che mắt ra, đối tượng nghiên cứu đã có thể chọn đúng các vật đã được sờ trong lúc che mắt. Như vậy thông tin có thể được nhận biết và ghi nhớ khi chỉ sử dụng duy nhất bán cầu não phải. Đến đây cũng cần nói là thực nghiệm này sẽ không thực hiện được với bạn - trừ phi bạn đã bị phẫu thuật tách đôi não bộ - bởi vì các dây thần kinh nối liền hai bán cầu não của một não bộ bình thường sẽ lập tức truyền đạt thông tin từ bán cầu não này sang bán cầu não kia, nên dù bạn sờ vào một vật gì với tay trái thì thông tin cũng được truyền sang bán cầu não phải, do đó không phân biệt được thông tin do tay phải hay tay trái truyền đạt).

Dựa vào các thông tin rút từ được thực nghiệm giống như thực nghiệm trên ta đã thấy rõ là bán cầu não phải và trái đã được biệt hoá trong việc xử lý các thể loại thông tin khác nhau. Một điều quan trọng khác là ta phải nhận thức rằng cả hai bán cầu não đều có khả năng giúp ta hiểu biết (understanding), nhận biết (knowing), và nhận thức về thế giới (beins aware), tuy chúng hoạt động theo những phương thức có phần khác nhau. Như vậy, hai bán cầu não nên được xem là khác nhau về phương diện hiệu quả xử lý (processing efficiency) một số thể loại thông tin, chớ ta không nên xem chúng là hai bộ óc hoàn toàn tách biệt nhau. Vả lại, ở những người có não bộ bình thường, không bị tách đôi, các bán cầu não hoạt động tương thuộc nhau để giúp cho tư duy của những người này có thể đạt đến mức toàn bích và phong phú nhất mà loài người có thể làm được.

ỨNG DỤNG THỰC TIỄN: GIÁ TRỊ THƯƠNG MẠI CỦA NÃO BỘ

"a-há! Bạn đã có dược Baby lý tưởng!"

"Em (Anh) rất thích điều Anh (Em) đã làm cho Em (Anh)!"

"Cứ làm đi!"

"Thật khủng khiếp nếu bạn lãng phí trí tuệ!" Nghe có vẻ quen tai phải không? Hẳn là quen rồi, bởi vì bạn có thể đã nghe dược những câu này không biết bao nhiêu lần. Bất kỳ ngày nào, một người Mỹ bình thường cũng phải tiếp xúc với khoảng 300 quảng cáo. Tính trong một năm, các quảng cáo đã lên đến con số trên 100.000. Dĩ nhiên các nhà thiết kế quảng cáo không chỉ nhất thời quan tâm đến việc làm cho bạn nhớ đến các quảng cáo của họ. Để đạt được điều này họ đã cung cấp vật liệu để ươm mầm kỹ thuật mới gắn kết việc ứng dụng quảng cáo với khoa học tâm lý sinh học.

Những nỗ lực đầu tiên để tìm hiểu sinh học hậu thuẫn cho quãng cáo đã khởi sự với những công cụ liên kết xung điện dược phát ra từ lòng bàn tay với các nội dung quảng cáo. Sử dụng một dụng cụ đo sự dẫn truyền xung điện dọc trong lòng bàn tay, các nhà thiết kế quảng cáo đã đo được từng khoảnh khắc một các mức độ chú ý dành cho các quảng cáo. Thí dụ như những người đang xem một mẫu thử nghiệm quảng cáo của hãng Kodak đã cho thấy sự chú ý ở mức cao nhất khi nhìn thấy hình ảnh một bé gái tóc thắt bím đang mỉm cười dược lồng vào mẫu quảng cáo, điều này cho phép các nhà thiết kế ra mẫu quảng cáo hiểu được là chính hình ảnh bé gái đó là then chốt cho sự thành công của mẫu quảng cáo do họ thiết kế.

Những sáng kiến gần đây trong việc thử nghiệm độ hiệu quả của quảng cáo đã dựa trên công cuộc nghiên cứu về sự thật hóa của bán cầu não phải và trái. Công trình nghiên cứu được thực hiện trong một phòng thực nghiệm đã cho thấy các mẫu quảng cáo thu hút sự chú ý do có tính lô-gích, thí dụ như những quảng cáo biểu diễn đề-mô (dùng thử) các sản phẩm, sẽ được xử lý tư duy bởi bán cầu não trái. Trái lại, các mẫu quảng cáo chủ yếu vận dụng cảm xúc dường như được xử lý tư duy bởi bán cấu não phải.

Thông tin này đã giúp các nhà thiết kế quảng cáo dự đoán được các vấn để nghiêm trọng sẽ nảy sinh với các mẫu quảng cáo Thí dụ như một mẫu quảng cáo bắt đầu với hình ảnh một ông bố dang trò chuyện rất tình cảm và thân thương với cô con gái của mình sẽ dẫn đến sự xử lý tư duy chủ yếu bên bán cầu não phải. Nhưng khi mẫu quảng cáo đột ngột chuyển sang phần trình bày các thông tin về sản phẩm (đòi hỏi lôgích) do đó chuyển sang sự xử lý tư duy chủ yếu của bán cầu não trái, thì anh hưởng còn lưu lại của sự xử lý tư duy của bán cầu não phải có thể sẽ cản trở việc hiểu rõ các thông tin về sản phẩm vốn do bán cấu não trái xử lý tư duy.

Điều quan trong cần nhớ là phần nhiều các công trình nghiên cứu về quảng cáo chỉ mới trong giai đoạn thực nghiệm và giả thuyền. Chưa có một kết quả cụ thể nào liên hệ sự thành công của một mẫu quảng cáo với việc xử lý tư duy do bán cấu não phải hoặc trái. Tuy vậy, việc các nhà thiết kế quảng cáo quan tâm đến các công trình khảo sát các dấu hiệu sinh học đáng chú ý trong các mẫu quảng cáo là một thí dụ thú vị về ứng dựng thực tiễn bắt nguồn từ các công trình nghiên cứu trong ngành tâm lý sinh học.

8. Mô-đun não: xem xét lại cấu trúc của não bộ

Hẳn các bạn còn nhớ ở phần trước cũng trong chương này chúng ta đã thảo luận về cấu trúc não liên quan đến các dạng kết nối nơron. Tuy nhiên các nhà tâm lý học có một phương thức khác đế nghiên cứu cấu trúc não căn cứ vào một liên hệ giữa các chức năng chuyên biệt, một mặt, với các cấu trúc của não, và mặt khác, với các tiến trình nhận thức phức tạp như tư duy (thinking), hiểu biết (understanding), nhận biết (perceiving), và ý thức (awareness).

Theo một quan điểm mới về phương thức vận hành của não thì não được tổ chức thành nhiều hệ thống mô-đun. Các mô-đun não (brain module) là các đơn vị tách biệt thực hiện các công việc chuyên biệt. Được phân bố khắp não, các mô-đun này vận hành tương thuộc nhau và gần như đồng thời trong việc xử lý thông tin.

Khái niệm căn bản làm cơ sở cho hướng tiếp cận kiểu mô-đun này là những khả năng mà trước đây đã được cho rằng nên xử lý như là một tổng thể thì nay được thấy là thật sự được cấu thành bởi nhiều hoạt động có tầm cỡ nhỏ hơn. Lấy thí dụ về khả năng xử lý thông tin thị giác của não chẳng hạn. Trước đây, người ta cho rằng trong não có một vùng duy nhất điều hành xử lý các tín hiệu thị giác. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thảo luận khi nghiên cứu về thị giác ở Chương 3, các chứng cớ ngày càng nhiều gợi ý là có những vùng tách biệt trong não liên quan đến những khía cạnh chuyên biệt khác nhau của thị giác. Thí dụ như một vùng não dường như xử lý các tín hiệu về màu sắc; một vùng khác chuyên xử lý sự chuyển động của hình ảnh; và còn một vùng khác nữa chuyên trách cảm nhận về độ nông sâu. Mỗi mặt này của thị giác được xử lý đồng lúc bởi một mô-đun tách biệt, sau đó thông tin sẽ được hội nhập thành một hình ảnh tổng hợp và toàn vẹn.

Một nghiên cứu mới đây cho thấy mức độ biệt hoá mô-đun rất cao. Thí dụ như ngày nay người ta đã thấy dường như não bộ có thể xử lý ngôn ngữ viết và nổi độc lập nhau nhờ vào sự hiện hữu của các mô-đun tách biệt nhau. Thay vì có một hệ thống duy nhất để học các quy tắc trong một hệ thống ngôn ngữ, thì nay có lẽ các mô-đun tách biệt sẽ nghiên cứu phương thức phát âm các thuật ngữ, viết các thuật ngũ, phân tích nguồn gốc các thuật ngữ, cú pháp, và các khía cạnh khác của hệ thống ngôn ngữ. Cũng tương tự như với thị giác, mỗi đặc điểm của hệ thống ngôn ngữ sẽ được xử lý đồng lúc và độc lập nhau, rồi sau đó các thông tin sẽ được tổng hợp.

Các chứng cớ ngày càng nhiều về sự hiện hữu của nhiều mô-đun não bộ độc lập với nhau đã cung cấp cho chúng ta phương thức liên kết các nơron cá thể với ý thức tổng thể mà chúng ta có được khi làm người. Michael Gazzaniga, một nhà tâm lý sinh học nổi tiếng, đã dự đoán ràng điều mà đã cung cấp cho mọi người một thế giới quan thống nhất chính là một mô-đun duy nhất chỉ có ở loài người: "mô-đun thông dịch"(interpreter) khu trú ở bán cầu não trái.

Theo Gazzaniga, mô-đun thông dịch này giúp chúng ta tự xây dựng các giả thuyết để giải thích các phản ứng của chúng ta. Mô-đun thông dịch đã cung cấp cho chúng ta phương thức phát triển và thay đổi các niềm tin của chúng ta về thế giới, cũng như hiểu điều gì đang xảy ra trong môi trường quanh ta.

Hãy còn quá sớm để có thể nói giả thuyết của Gazzaniga đúng hay sai. Tuy nhiên, rõ ràng là não bộ và hệ thần kinh của loài người đang ngày càng bộc lộ các bí ẩn của chúng trước một đội ngũ các nhà tâm lý sinh học, các nhà nghiên cứu về nội thần kinh chuyên về nhận thức (cognitive neuroscientists), và các nhà nghiên cứu thuộc các lãnh vực khác.

9. Tóm tắt và ôn tập IV

A. TÓM TẮT

* Vỏ não (Cerebral cortex) bao gồm 3 vùng chính: vùng vận động, vùng cảm giác, và vùng điều phôi. Các vùng này điều khiển lần lượt cử động hữu ý, cảm giác, và các tiến trình trí tuệ cao cấp (bao gồm tư tưởng, ngôn ngữ, ký ức, và khả năng vận ngôn).

* Hai bán cầu não tương đồng về mặt cấu trúc, nhưng dường như chúng chuyên trách các chức năng khác biệt nhau. Bán cầu não bên trái liên hệ chặt chẽ nhất đến ngôn ngữ và các kỹ năng nói, còn bán cầu não bên phải liên hệ đến các kỹ năng phi ngôn ngữ như năng khiếu âm nhạc, biểu lộ tình cảm, nhận thức mô hình, và xử lý các tín hiệu thị giác.

* Hệ nội tiết tiết ra các kích thích tố, là các hóa chất ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và vận hành cơ thể.

* Phản hồi sinh học là một kỹ thuật theo đó người ta học cách kiểm soát một số tiến trình sinh lý bên trong cơ thế, nhờ đó chữa trị được nhiều chứng bệnh chuyên biệt.

B. HỌC ÔN

1. Thuỳ ________ nằm phía sau thùy trán và thùy ______ nằm phía sau thùy thái gương

2. Một bác sĩ phẫu thuật gắn một điện cực lên một bộ phận thuộc não bộ của bạn và kích thích điện. Lập tức, cổ tay phải của bạn co giật mạnh. Rất có thể vị bác sĩ ấy đã kích thích một bộ phận thuộc vùng ______ trong não bộ của bạn.

3. Vùng vận động trong não bộ được phân thành những phân đoạn kiểm soát các phần khác nhau của cơ thể. Độ chính xác cần thiết cho các vận động của các phần cơ thể này càng cao thì diện tích tương ứng nằm trên não bộ càng lớn. Đúng hay sai? ____.

4. Các vùng cảm giác trong não bộ được phân theo kích thước của các cơ quan cảm giác. Như vậy, do da (cơ quan cảm giác) ở phần lưng con người rộng hơn so với da ở các đầu ngón tay (cơ quan cảm giác) nên phần nằm trong vùng cảm giác ở não liên kết với các cảm giác ở lưng sẽ lớn hơn nhiều so với phần liên kết với các cảm giác ở đầu ngón tay. Đúng hay Sai? ______.

5. Bạn trông thấy một người đàn ông được yêu cầu chuốt viết chì. Ông ta xoay đồ chuốt viết chì trong suốt năm phút mà không sao đút được cây viết chì vào lỗ chuốt được. Chứng bệnh có thể gây nên thể loại hành vi này được gọi là ______.

6. Các bán cầu não điều khiển phần cơ thể cùng phía với chúng, bán cầu trái điều khiển phần cơ thể bên trái, và bán cầu não phải điều khiển phần cơ thể bên phải. Đúng hay sai? ______.

7. Các lĩnh vực phi ngôn ngữ, như tình cảm và âm nhạc, được điều hành chủ yếu bởi bán cầu não ______, còn bán cầu não ______ chịu trách nhiệm nhiều hơn về các kỹ năng nói và đọc.

8. Các lý thuyết hiện hành gợi ý rằng não bộ được tổ chức thành một bộ các ______ mỗi bộ ấy vận hành tương thuộc để thực hiện một công việc nhất định.

9. _______ là một kỹ thuật theo đó người ta học cách theo dõi và cải biến các hiện tượng sinh lý, trong tương lai có kỹ thuật này có thể được áp dụng để giúp đỡ các sinh viên tập trung học tập.

C. CÂU HỎI TỰ VẤN

Hãy nghĩ đến hai người bạn từng quen biết. Hãy căn cứ vào mức độ khác biệt họ cho thấy mà ước đoán bán cầu não phải hoặc trái chi phối họ nhiều hơn.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store