ZingTruyen.Store

Lập Đông-Nghe tiếng đỗ quyên

Chương 3: đường trăm nẻo vui buồn ly hợp

ngLp50


Về đến hành cung, Bùi Dự liền tìm gặp thần thổ địa. Ông thổ địa ngự tại hành cung là người thông thái nhất, không chỉ tỏ tường đường đi lối lại mà những chuyện từ đao to búa lớn đến lông gà vỏ tỏi, chẳng chuyện gì qua được mắt ông. Trông thấy Bùi Dự, ông không khỏi ngạc nhiên:

-Có phải tướng quân Dự đấy chăng?

Bùi Dự vội chào hỏi ông ấy rồi hỏi han tung tích của con mình:

-Trước năm Thuận Khánh thứ nhất con của ta có về lại đây, ngài có biết giờ nó đang trú nơi đâu không?

Mặc dù không sống ở kinh đô, nhưng mỗi năm một lần, vào ngày kỵ của Cẩm Tú, con gái y luôn về kinh lo chuyện giỗ chạp cho mẹ. Nay mộ của vợ không còn, nhưng chí ít y vẫn biết nàng đang làm việc ở đâu. Về phần đứa con nay đây mai đó này, từ khi Bùi Dự ra khỏi mộ, y vẫn bặt tăm tung tích của nó. Kể mà gặp được Lê Thực, ông ấy rõ về gia đình y nhất, có khi sẽ hỏi được nhiều hơn. Hiện giờ ông nghè lại đang canh gác hoàng lăng, thành thử y chỉ đành hỏi thần thổ địa để biết thêm tin tức.

Ông thổ địa nhìn Bùi Dự hồi lâu, đôi mắt thoáng hiện lên vẻ buồn bã. Từ khi thành Hoàng Hoa ra đời, ông đã chứng kiến chuyện đời của vô số người, kể cả Bùi Dự. Y từng ở đây gần nửa đời người, từ khi yết bảng tam giáo đến lúc quyền cao chức trọng. Ông cũng biết rõ chuyện nhà của Bùi Dự, nhất là những năm y không ở đây.

-Xin tướng quân đợi cho một chốc.

Bùi Dự liền có cảm giác chẳng lành, y ngồi đợi ông thổ địa viết thư hỏi các thần thổ địa ở các vùng lân cận mà trong lòng thấy nóng như lửa đốt. Chẳng mấy chốc đã có thư hồi âm, tâm trạng của thần giữ đất hết sức phức tạp, chẳng biết nên mở lời thế nào nên ông chỉ đành đưa lá thư cho Bùi Dự:

-Tướng quân hãy dựa vào tin này mà tìm lệnh ái.

Lướt vội qua những dòng chữ viết rối bằng mực tàu, Bùi Dự thấy mình như chết thêm lần nữa. Nửa sau bức thư chữ nào y cũng quen mặt, mà ghép từng câu lại chẳng hiểu dòng đâu. Gấp lại bức thư mà thần thổ địa đưa cho, y cúi gằm mặt xuống, giọng nói lạc cả đi:

-Đa tạ ông đã giúp tôi, ơn này tôi xin ghi xương tạc dạ.

Gửi lời cáo biệt, Bùi Dự thất thểu dắt ngựa bước đi. Ngang qua kinh thành, y nhớ lần đầu lên kinh thi cử, sau đó vào triều làm quan rồi thăng quan tiến chức. Cứ đi mãi, y đã đứng trước cửa nhà cũ từ lúc nào. Khi trở thành Chỉ huy sứ và được triều đình ban nhà trong kinh, vợ chồng y đã rất vui mừng. Lúc đó, Bùi Dự kiêu ngạo vô cùng, ngày nào cũng lặp đi lặp lại với vợ mình một câu rằng:

-Ngày sau con gái đi lấy chồng, lúc nó bước ra từ căn nhà này, ông bà ta mát mặt biết bao!

Cẩm Tú không chờ được đến ngày đó, bởi một năm sau nàng đã qua đời.

Lo liệu xong xuôi tang sự của vợ, Bùi Dự càng quyết tâm bước xa hơn trên đường mây xanh(1). Vừa là cha vừa là mẹ, chỉ khi y trở thành chỗ dựa vững chắc nhất, con của y mới không bị ai xem thường, mới có thể cưới được một tấm chồng tốt. Đi mãi trên con đường ấy, rồi y cũng là Thị lang bộ Binh. Khi đó con gái đã đính hôn, y lại càng đắc ý, ngày nào cũng nói đến mức tai con mình sắp mọc cả kén:

-Đến khi con đi lấy chồng mà bước ra từ căn nhà này...

Bùi Dự chưa kịp dứt câu, cô con đã nói nốt phần còn lại:

-Thì cha sẽ hãnh diện biết bao!

Thực tình, khi còn tại thế, y cũng không phải người hay khoe. Nhưng nghĩ đến con đường gập ghềnh mà mình đã đi qua, từ một thư sinh trở thành người có tước quyền, y không khỏi thấy tự hào. Ngặt nỗi, Bùi Dự không có quá nhiều sĩ diện để khoa trương với thiên hạ, nên y chỉ khoe khoang với vợ con. Sau cùng, do nói chuyện này nhiều quá, con gái y đã ngao ngán than rằng:

-Con mà là đàn ông, thể nào cũng xây được cho cha cái nhà to gấp mười lần.

-Nhà chị nói thì hay lắm! Chị mà là đàn ông, có khi còn chẳng xây được một phần mười căn nhà này.

Nói thì nói thế thôi, đến khi đứa con duy nhất đi lấy chồng thật, y lại chẳng tài nào đắc ý nổi. Con cái có chỗ nương tựa thì cũng vui, nhưng cả căn nhà rộng như thế, giờ y chỉ có một mình. Ngẫm thấy cũng buồn, nên khi triều đình giao cho làm quan trấn thủ Bắc Sơn, Bùi Dự cũng vâng mệnh đi luôn. Dẫu sao bận bịu việc công cũng khiến lòng y vơi đi nỗi cô tịch.

Giờ đây, gian nhà cũ hồi ấy đã trở thành ba căn nhà khác nhau, khu đất này cũng trở thành phố buôn bán. Bùi Dự ngẩn người nhìn nơi từng là nhà cũ của mình trong giây lát rồi y lại thúc ngựa xuôi nam.

Những tưởng cảnh còn người mất, mà nay người mất cảnh cũng chẳng còn.

                                                          *****

Trước khi Bùi Dự qua đời, phủ Tĩnh An(2) là thành trì cuối cùng của Đại Việt. Phủ này không phải là vùng đất màu mỡ, phía nam lại giáp Chiêm Thành nên lại hay xảy ra chiến loạn. Từ thời Thái Tổ Thái Tông, người Chiêm đã nhiều lần dẫn quân lên giao chiến, nhưng hầu hết đều bại trận. Bùi Dự ra làm quan ở thời vua Đặng Hiến Tông, khi ấy, trị an vùng biên giới Tĩnh An hãy còn tốt. Chỉ là trong mấy năm cuối đời của vua Hiến Tông, quý phi Bùi Thị cùng với phe phái của thái tử đối đầu gay gắt. Do các phe phái tập trung vào cuộc chiến đoạt vị nên biên giới phía bắc có người Lương rục rịch dẫn quân tiến vào, phòng tuyến phía nam lại lỏng lẻo. Sau cùng, thái tử qua đời, vua Quang Tông nối ngôi khi mới lên năm. Với độ tuổi non trẻ của vị vua mới, không khó để đoán chắc rằng người buông rèm nhiếp chính là mẹ đẻ của vua, tức thái hậu Bùi Thị.

Sau khi Đặng Quang Tông chuyển quyền cho họ Bùi lập đô ở đất tổ Lạc Kinh, dưới sự lãnh đạo của vua Quang Đức họ Bùi cùng sự tham gia của các quan lại, tướng lĩnh và một số tông thất họ Đặng, vó ngựa của người Lương đã bị đẩy lùi khỏi Đại Việt.

Hoặc đúng hơn là khỏi phần lãnh thổ Đại An.

Ngẫm đến đây, Bùi Dự không khỏi bật cười. Hán Sở tranh hùng, trong cuộc chiến quyền lực ấy, đi giữa bàn cờ, y cũng chỉ là một con cờ có giá trị. Nếu những năm ấy y không đi trấn thủ Bắc Sơn, kết cục của y chưa chắc đã được như bây giờ. Vua Thuận Khánh là con thứ hai của Định Vương, người có tài cầm quân trận mạc, mà Định Vương là chú của vua Hiến Tông. Chị gái cùng mẹ với vua Thuận Khánh là thái tử phi, còn vợ của thế tử phủ Định Vương lại là họ hàng gần của quý phi Bùi Thị. Bùi Thị lên ghế phượng không lâu thì vua Hiến Tông qua đời, Quang Tông nối ngôi. Từ đây, cuộc chiến tranh đoạt quyền lực giữa các phe phái diễn ra ngày một gay gắt. Cuối cùng, phần thắng đã nghiêng về họ Bùi.

Trong vòng xoáy quyền lực ấy, con gái của Bùi Dự cũng bị liên lụy. Lúc ấy, hay tin con mình bị chồng bỏ, Bùi Dự vừa khải hoàn trở về, dẫu mang trọng bệnh y cũng cố ngược đường từ Bắc Sơn về nam. Y muốn hỏi cho rõ nguyên nhân dẫn đến cơ sự này, hoặc chăng mắt y đã nhìn lầm người. Dẫu có chuyện gì xảy ra, y cũng phải là chỗ dựa của con. Tuy nhiên, chưa đi được bao xa thì bệnh trở nặng nên Bùi Dự đã qua đời. Mãi hơn nửa năm sau khi họ ấy lụn bại, y mới vỡ lẽ. Nhà chồng của con y có ông bác tên Cao Thịnh là nội các đại thần. Họ Cao đã có mấy đời làm quan, nhưng chưa thế hệ nào như thế hệ của ông Thịnh ấy, có cả người làm Đại lý tự khanh, lại có cả Chỉ huy sứ. Do ủng hộ thái tử mà sau này, Cao Thịnh cùng một số người trong họ đã bị xử tử, cả họ chịu cảnh lưu đày. Một số người không muốn chịu nhục liền chọn cách tự sát, số ít trốn được thì đầu quân cho công tử thứ hai của phủ Định Vương.

Không lâu sau khi Định Vương qua đời, tuy phe cánh của thái tử đã bị loại bỏ gần hết nhưng phía Bùi thái hậu cũng thiệt hại không ít. Sau cung biến, thế tử cùng một số thân quyến họ Đặng lên phía Bắc theo chỉ dụ của vua Quang Tông và lập ra vương triều mới. Các triều thần, bô lão còn lại xem đây là hành động trái với đạo trời. Theo lẽ dĩ nhiên, người em thứ trở thành Định Vương và nắm quyền nhiếp chính vương triều họ Đặng. Sau đó, ông đã chỉ huy các tướng lĩnh dẫn quân dẹp loạn phương nam, lại mở mang thêm lãnh thổ rồi lập ra các phủ Quảng Hà(3), Bình Trị(4). Ông cũng cho dân xuôi nam khai hoang lập ấp, nhân dân lại sống cảnh ấm no. Sau cùng, Định Vương được triều thần suy tôn làm vua, lấy hiệu là Thuận Khánh. Những người mang họ Cao từng phò trợ cho ngài, sau khi ra làm quan cũng xin triều đình rửa sạch oan khuất cho dòng tộc. Từ đó tới nay, hai vương triều như nước với lửa, cách vài năm thì lại đem quân ra biên giới đánh nhau một lần. Ba mươi năm đánh nhau bốn lần, bởi cứ mãi ở thế giằng co nên hai bên đã tạm đình chiến, nước giếng không phạm nước sông.

Sau bao biến cố, con của y vẫn sống. Nó được đẩy từ vòng xoáy nước đến lưu vực sông, cứ sống lay lắt như vậy rồi lại chết. Cuối cùng cũng chết.

Có lẽ ai rồi cũng phải chết, dẫu sao thì lẽ đời cũng vậy.

                                                     *****

Sau khi gửi ngựa vào chuồng, Bùi Dự cầm theo cau trầu hoa quả bước vào phủ Quan Hoàng Mười(5). Gió Tây Nam mang theo cái hơi oi bức khiến khí hậu phủ Tĩnh An càng thêm nóng nực vào mùa hè. Từng quen với khí hậu lạnh buốt da cắt thịt ở Bắc Sơn, y không khỏi cảm khái về một sự khắc nghiệt rất khác của tiết trời xứ này, nơi lắm nắng hạn mà bão giông cũng nhiều. Nếu có thể được chọn, con người ta sẽ chẳng ngần ngại mà tìm đến nơi thời tiết ôn hoà, bốn mùa tươi tốt. Nhưng dù có được chọn, nhiều người cũng chẳng nỡ bỏ rời mảnh đất chôn nhau cắt rốn, dẫu cho vùng ấy có lạnh cắt da hay nóng hầm hập. Điều khiến con người đưa ra lựa chọn cảm tính như thế, có lẽ ngoài tình yêu với đất đai, không có lời giải thích nào hợp lý hơn cả.

Với thời tiết ở phủ Tĩnh An, hoa quả chỉ để được vài hôm là héo, trầu cau chưa đến một hai ngày thì đã quắt cả lá. Đung đưa túi hoa quả đang xách trong tay, ánh nắng ngoài hiên chói đến độ khiến Bùi Dự theo bản năng hơi nheo mắt lại, dẫu y chẳng thấy nóng. Bởi lẽ y đã chết, mà người chết thì không cảm được ấm lạnh, không sờ thấy nắng cũng chẳng chạm đến mưa. Hoặc chăng y vốn là tiên nên sau khi chết đi, xúc giác của y với thế tục đã dần mờ nhạt. Nếu so với thời tiết ở Bắc Sơn, Bùi Dự cảm thấy sự khác biệt này khá thú vị. Hồi còn sống, y hay đi đền vào ngày rằm. Có một năm khi đông đến, y vẫn thường xuyên lui tới ngôi đền gần phủ và y có thấy nải chuối mà mình cúng từ một tuần(6) trước vẫn còn xanh nguyên. Bùi Dự biết vào mùa đông, hoa quả sẽ chín lâu hơn bình thường nhưng y không ngờ rằng, sau mười ngày mà cả nải chuối vẫn giữ nguyên một sắc. Trong giây lát, lòng y đã nảy ra một giả thuyết khác, rằng người thủ đền hoặc khách thăm viếng đã cung tiến nải chuối mới. Y cảm thấy suy đoán này hợp lý hơn cả, và ông già ngoài năm mươi tuổi cũng không kể với ai khác về phát hiện nho nhỏ này.

Giờ đây ngẫm lại, Bùi Dự lại thấy buồn cười. Hồi ở tiên cung, y không quá sát sao với chuyện ăn uống hay hoa cỏ. Bởi cỏ cây ở cõi tiên bốn mùa đều đẹp, mà thần tiên thì không giống con người, mặc dù vẫn có thể thưởng thức cái ngon cái đẹp nhưng không cần lệ thuộc vào lương thực để duy trì sự sống. Thần tiên làm việc bất kể ngày đêm, dù là trong lễ tiệc của mình, họ vừa tổ chức tiệc vừa nhận đơn sớ ban tài tiếp lộc. Lo chuyện mồ yên mả đẹp, se tơ kết tóc, công danh tài lộc, xông đất nhập trạch, trừ tà diệt quỷ, chấm đồng bắt lính, hộ quốc an dân. Mỗi người một việc, ai có nhiều lộc thì làm nhiều việc hơn, thánh thần nào cũng bận rộn trong cái guồng quay ấy. Nhất là vào lễ tết, Bùi Dự cũng không ngoại lệ, quay cuồng trong công việc khiến y hiếm khi để ý tới những nét đổi thay của sự vật. Lúc mà việc nhiều cũng là khi năm hết tết đến, đến khi khối lượng công việc về lại như mọi ngày cũng là lúc đã ra giêng. Tết là ngày đoàn viên nên thiên đình cũng nhiều lễ tiệc. Cùng tham dự với chúng bạn, Bùi Dự cũng cảm thấy vui, nhưng đến khi tiệc tàn là niềm vui cũng dần bay biến.

Hồi ấy, y không thể đưa ra lời giải thích hợp tình hợp lý về cảm giác đó, bởi y chỉ cho rằng lễ tiệc vào ngày nào thì cũng giống nhau, đều có chung một điểm là rộn ràng và linh đình, nên y chỉ cho rằng sự chán chường là do không thấy gì khác biệt hay mới lạ. Bây giờ thì y đã hiểu, y thấy buồn là do không có ai để chia sẻ niềm vui, y cũng không có chỗ dựa về mặt tinh thần. Cảm giác vui mừng chóng vánh trong ngày đoàn viên cũng đến từ việc y chỉ có một mình, không có ai để sẻ chia. Nỗi đơn côi trong thoáng chốc không thể lý giải bằng lời đã dễ dàng bị vùi lấp dưới công việc chất chồng, rồi y cũng quên bẵng đi ngay. Vậy mà khi ở dương thế, cũng như bao người trần khác, Bùi Dự luôn ngóng chờ tết đoàn viên. Tết là thời khắc đất trời thay da đổi thịt, vạn vật bừng lên sức sống. Chợ vẫn mở như bao ngày khác, nhưng phiên chợ đón tết thì lại khiến cõi lòng người ta xốn xang lạ kỳ. Nêu xanh đào đỏ, bánh chưng bánh dày, tranh hoạ câu đối... đó là những gì thuộc về tết, làm nên tết. Hơn cả những thức quà mà chỉ tết mới có, đó là cảm giác có nơi chốn để trở về, mọi người đều bên nhau vào ngày tết, có lẽ vì thế nên tết mới được gọi là ngày đoàn viên.

Vì có người nhà, nên Bùi Dự không còn cô đơn nữa. Những năm cuối đời khi trấn thủ Bắc Sơn, y đón tết ở biên cương và không về lại kinh thành, việc đợi chờ những bức thư nhà trước khi tết đến cũng là một niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. Ở Bắc Sơn thường gói bánh chưng dài, quê nhà Giang Đông của y cũng vậy. Do nhiều năm sống ở kinh thành, mà tướng lĩnh trong quân nhiều người cũng đến từ các châu phủ khác, nên khi tết đến, mọi người thường gói cả hai loại bánh chưng vuông và bánh chưng dài. Theo quan điểm cá nhân của Bùi Dự, mỗi kiểu bánh sẽ có một cách thưởng thức riêng biệt làm nổi bật vị ngon của nó. Bánh chưng dài cắt khoanh rồi rán lên là ngon nhất, còn bánh chưng vuông thì nên chia làm tám miếng rồi ăn không. Vợ con Bùi Dự thì không đồng tình lắm với ý kiến của y, hai mẹ con đều cho rằng bánh chưng vuông hay dài đều có chung nguyên liệu, có ăn kiểu gì thì vị cũng không đổi.

Nghĩ vu vơ mãi rồi cũng sắp trưa. Âm dương cách biệt, ngày giờ hai cõi cũng đảo ngược nhau. Sắp đến tiệc khai ấn, phủ Quan Hoàng đông người đến xin lộc, gia tiên các nhà đi cùng con cháu trợ duyên nhiều không xuể, Bùi Dự chỉ đành đợi đến khi đã vãn khách. Tính giờ dương thì cũng đã là canh tý, mọi người đều theo con cháu trở về nhà, còn Bùi Dự thì đi cùng tiên cô tiên cậu để diện kiến Quan Hoàng.

-Nếu ta nhớ không nhầm thì ấn lệnh đã được trao cho quan quận rồi. Nay quan quận ghé phủ là còn vướng mắc điều chi?

Trên án thư chất từng chồng đơn sớ cao ngất, chiếc bàn dài cũng chỉ còn một khoảng đủ rộng để đặt giấy viết. Quan Hoàng Mười hỏi mà không ngẩng đầu lên, tay duyệt nốt tờ sớ đang viết dở rồi đóng ấn. Xong xuôi, ngài mới gác bút mỉm cười nhìn Bùi Dự. Y dâng sớ rồi nhận lấy chén trà, cũng trình bày rằng mình đang đi tìm con.

-Tên của ún tiểu là gì nhỉ?

-Bẩm hoàng, con gái tôi tên Bùi Yên Hoa.

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.

Tháng ba hoa khói xuôi dòng Dương Châu.

-Tên hay.

Theo những gì Bùi Dự hỏi thần thổ địa, vào năm Thuận Khánh thứ hai, mộ của vợ y bị quật. Vào ngày giỗ, theo thông lệ hàng năm, Yên Hoa đều về Hoàng Hoa làm lễ cho mẹ. Tuy nhiên, khi ra đến mộ thì cô phát hiện ra mộ của Cẩm Tú đã bị đào lên, lại còn mất sạch đồ thờ. Thế rồi Yên Hoa tức điên lên, cô liền đi tìm quan phủ để báo án. Lúc này, cô vẫn là người có lí. Bởi lẽ, theo pháp luật của triều đình, trộm cắp đồ tùy táng có thể phạt tiền và phạt đòn. Tội huỷ hoại thi cốt của người chết còn nặng hơn, có thể phạt lưu đày hoặc xử trảm. Bùi Dự qua đời được truy phong làm quận công, vợ của y cũng theo đó mà được phong là quận phu nhân. Kẻ trộm mộ Cẩm Tú đã mắc hai tội lớn trên, lại càng nghiêm trọng hơn khi đó là mộ phần của gia quyến quý tộc đương triều. Thế nên, theo lẽ thường, hung thủ phải bị xử trảm.

Đương buổi loạn lạc, chuyện tày trời cũng hoá lẽ đương nhiên. Đâu ai quan tâm tới chỗ ở của người chết, nhất là khi bản thân người sống đang phải chịu cảnh nay đó mai đây? Lúc đó, thế cục triều đình nghiêng ngả, Hoàng Hoa, Nam Bình(7), Nam Hà(8) đều đang ở thế giằng co quyền lực, sau cùng, ba phủ này vẫn thuộc về họ Đặng. Quan phủ khi ấy theo phe Bùi thái hậu, lúc đó đang tìm cách để giữ mũ ô sa trên đầu, không tâm trí đâu mà lo chuyện khác. Do đó, chuyện Yên Hoa thưa kiện rất nhanh đã chìm vào quên lãng.

Thế nhưng, Yên Hoa vẫn kiên trì thưa kiện và được quan phủ tiếp nhận đơn sớ. Vụ kiện chỉ được xử lý qua loa cho có, quan trên phán rằng sự việc đã xảy ra từ lâu, mà giờ thi hài của người chết cũng đã thất lạc nên tuyên bố không giải quyết nữa. Thậm chí, quan phủ còn quy cho cô tội bất hiếu khi không hương khói, thờ phụng cha mẹ mới dẫn đến cơ sự này. Đã từ lâu, quan niệm trăm điều lấy chữ hiếu làm đầu đã đi sâu vào tiềm thức của người dân và cũng được coi như gốc rễ của con người.

Hồi ấy, chuyện của nhà họ Cao lẫn hoàn cảnh của Yên Hoa cũng không đến nỗi im hơi bặt tiếng. Chuyện đã qua từ lâu, vả lại, đó là việc của triều trước nên người người không ai dám lạm bàn. Thế nên, vụ kiện tụng dừng lại ở đó. Nếu chỉ dừng lại ở đó thì tốt. Đằng này, quan trên như cha mẹ, ấy thế mà cô lại dám xúc phạm mệnh quan triều đình, cô không chỉ bất hiếu mà còn phạm tội bất trung, bất nghĩa. Xét thấy gia phụ có công thủ hộ sơn hà, miễn cho Bùi Thị tội trọng hình. Gia sản của cô bị tịch biên, từ đó trở đi không được trở về phủ Hoàng Hoa nữa.

-Năm ấy ta từng nghe chuyện này rồi. Con của quan quận thân gái một mình mà dũng cảm đòi lại công bằng cho mẹ cha, các vị tiên thánh khi biết chuyện đều chứng cho tấm lòng hiếu thảo. Còn về tên tham quan kia, bệ hạ cũng đã xử tử rồi, quan quận cũng chớ nhọc lòng thêm nữa.

Nhìn qua thần sắc điềm tĩnh và nụ cười mỉm mà Quan Hoàng Mười vẫn luôn duy trì, Bùi Dự không đoán được tính cách thật sự của ngài, một người sống kín đáo và làm việc cẩn thận. Bằng thời gian làm việc lâu dài ở tiên cung, cho dù không xuống trần gian, y cũng biết được ý tứ trong lời nói của Quan Hoàng, đó là chuyện nhân quả đã được định đoạt, chớ có làm xáo trộn thêm.

Quan Hoàng Mười nhận lấy hai phong bao từ tay thư đồng rồi đưa cho Bùi Dự:

-Hai người đều là nữ, có bát tự y hệt nhau, khớp từ ngày sinh tháng đẻ cho tới ngày giờ qua đời. Quan quận xem thử đi.

Nhìn qua tờ lá số lệch năm sinh tận một giáp, Bùi Dự xem xét kỹ tờ còn lại đề tên Dư Hoà (9) rồi khẳng định:

-Đây đúng là hồ sơ của con tôi.

-Người đó trú cùng các vong linh khác ở chỗ Quan Hoàng Ba(10). Tháng bảy năm trước xá tội vong linh, theo luật nhà trời, những người không thân thích mà ở dưới âm quá lâu, hoặc tích đủ công đức mà không nơi nương tựa đều được chọn để đi đầu thai. Lúc ấy quan quận chưa ra ngoài, đợt đầu thai ấy tên của ún tiểu đã vào danh sách nên Hoàng Ba chuyển lên cho Quan Đệ Tam(11) rồi.

Dừng trong giây lát, Quan Hoàng nói tiếp:

-Đơn còn lại ở đền Cờn, sau cũng đã chuyển cho Quan Tuần Tranh(12). Quan quận cũng hay, để được đi đầu thai thì vẫn còn nhiều bước. Chuyện gặp lại con gái, cũng không phải không có khả năng.

Hy vọng lại loé lên trong lòng Bùi Dự, nhưng y chỉ thấy tia sáng lập loè đó thật mong manh giữa đêm đen. Phận số tréo ngoe, y gặp một người giống hệt vợ mình, sau đó mới biết đó là nàng. Y đi tìm con thì biết con đã chết, đi đến nơi biết được tung tích của nó thì lại hay tin nó sắp đi đầu thai. Thôi thì biết đến đâu lại hay đến đấy, Bùi Dự vội cáo biệt Quan Hoàng Mười rồi chuẩn bị tới phủ của Quan Lớn Đệ Tam.

Sau khi Bùi Dự rời đi, Quan Hoàng Mười lại về với đơn sớ trên án thư. Cậu thư đồng đứng hầu bên cạnh tỏ ra thắc mắc:

-Cái tên quận công đặt cho con mình nghe thì hay, nhưng lại không có ý nghĩa trường thọ.

Quan Hoàng vừa duyệt sớ đóng ấn vừa giải đáp:

-Cha mẹ đặt tên cho con cái hẳn đều mang theo kỳ vọng tốt đẹp. Có lẽ quan quận chỉ mong cho con cái được tự do, thoải mái vô lo mà thôi.

Cậu thư đồng lại nghĩ khác. Cỏ cây bị ràng buộc trong đất đá, nhưng cây cối cũng từ dinh dưỡng của đất đai mới phát triển được. Bản thân đá ngọc đã quý giá, không cần nhờ đến con người mới phát huy được giá trị của mình, nhưng qua bàn tay của nghệ nhân, chúng lại trở nên sáng bóng đẹp đẽ hơn. Vạn vật trên đời đều nương tựa, gắn kết và bổ trợ hài hoà cho nhau mới phát triển được.

Quan Hoàng Mười ngừng bút, chậm rãi gấp đơn sớ lại. Mặc dù thời gian theo hầu đã lâu, cậu thư đồng vẫn không đoán rõ được nội tâm của ngài. Hoàng Mười là người hoà nhã, thân thiện nhưng lại không thích bộc lộ tâm tư của mình. Mặt ngọc thoáng nét đăm chiêu, ngài lấy đơn đơn sớ tiếp theo rồi thảo tiếp:

-Con nói cũng có lý.

Sau đó, Quan Hoàng Mười bảo cậu thư đồng chuyển thư cho Quan Đệ Tam, nhờ ngài xem xét lại chuyện của Bùi Dự. Cậu thư đồng ngạc nhiên nhìn vị Quan Hoàng, ngài mỉm cười giải thích:

-Ông ấy có công hộ quốc an dân, sau vì nhiều lẽ mà cách biệt thân nhân. Nếu ta ở vị trí của ông ấy, có lẽ ta cũng sẽ làm như vậy.

Cậu thư đồng chắp tay vái chào ngài, rồi vội đi chuyển thư kẻo lỡ việc của Bùi Dự. Quan Hoàng Mười thực lòng muốn giúp Bùi Dự, nhất là khi biết những gì mà y đã trải qua. Được dân chúng khói hương thờ phụng, thần thánh càng nên đưa đường dẫn lối cho trăm họ qua cơn bĩ cực, phù hộ cho đất nước thái bình. Được nhân dân thờ vọng vì tài đức, thần càng phải biết thấu hiểu cho tấm lòng của trăm họ. Một con người được suy tôn làm thánh, lúc sinh thời chịu cảnh loạn lạc, thấu nỗi đau nước mất nhà tan, cốt nhục ly tán, càng phải biết quý cảnh thái bình ấm êm. Từng chịu cảnh hàm oan lưu đày, tài hoa bị vùi dập, càng phải biết trân trọng những tấm lòng nhân nghĩa. Gặp người khốn khó phải giang tay cứu giúp, thấy người trong cảnh éo le càng phải biết đồng cảm. Không chỉ vì tài hoa nghiêng trời lệch đất mới được dân chúng tôn làm thần, mà vì từng trải nên thấu hiểu nỗi khổ của chúng sinh, vì đồng cảm mà giang tay giúp đỡ.

"Ở cho có đức có nhân,

Mới mong đời trị được ăn lộc trời.

Thương người tất tả ngược xuôi,

Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.

Thương người ôm dắt trẻ thơ,

Thương người tuổi tác già nua bần hàn.

Thương người quan quả, cô đơn,

Thương người lỡ bước lầm than kêu đường." (13)

Nếu ngay cả thần thánh cũng có nỗi khổ, vậy ai sẽ dang tay ra để cứu giúp thần đây?

Cứu người thì rõ mười mươi, oan gia trái chủ ai thời giúp ta?



Chú thích:

(1) Đường mây xanh: đường công danh

(2) Tĩnh An: địa danh hư cấu, vị trí địa lý tương đương tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.

(3) Quảng Hà: địa danh hư cấu, vị trí địa lý tương đương tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình.

(4) Bình Trị: địa danh hư cấu, vị trí địa lý tương đương tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị.

(5) Quan Hoàng Mười: là một vị thần trong Tứ phủ Quan Hoàng, xếp hàng thứ mười.

(6) Một tuần: có 10 ngày. Theo cách tính thời gian của người Việt trước thì một tháng có 3 tuần gồm thượng tuần (上旬, từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 10), trung tuần (中旬, từ ngày 11 đến ngày 20) và hạ tuần (下旬, từ ngày 21 đến ngày 30).

(7) Nam Bình: địa danh hư cấu, vị trí địa lý tương đương tỉnh Thái Bình, Hà Nam, Nam Định.

(8) Nam Hà: địa danh hư cấu, vị trí địa lý tương đương tỉnh Hà Nam, Hoà Bình.

(9) Dư Hoà: ghép từ chữ Dư 與 trong tên của Bùi Dự (chữ Dự:譽) và chữ Hoà 禾 trong tên của Cẩm Tú (chữ Tú:秀)

(10) Quan Hoàng Ba: là một vị thần trong Tứ phủ Quan Hoàng, xếp hàng thứ ba.

(11) Quan Đệ Tam: là Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ, ông đứng thứ ba trong Ngũ Vị Tôn Ông.

(12) Quan Tuần Tranh: là Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, ông đứng thứ năm trong Ngũ Vị Tôn Ông.

(13) Bài thơ "Dạy con ở cho có đức", Nguyễn Trãi.


                                                    *****

20/12/2025. Viết bởi Lập Đông, chỉ đăng tại VV@ttpad.

Cảm ơn mọi người vì đã đọc, hãy bình chọn và bình luận để mình có động lực viết tiếp nhóoo <33

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store