[ Full - Quyển 2 ] Tự Truyện Tâm Linh - Nghiệp Âm
Chương 3.
Chúng tôi ngược đường đến một miền sơn cước khi trời đã về khuya. Thầy Hữu cùng anh Thuận sau quãng thời gian nghiên cứu tấm địa đồ thì vẫn chưa tìm được câu trả lời cụ thể. Hiện thời chỉ có thể đoán biết rằng thứ bảo vật đương nằm ven một con suối thuộc địa hạt huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn. Dừng chân tại quán trọ ven đường, thầy Hữu tập hợp chúng tôi lại để phân chia đầu việc. Theo đó, thầy Hữu cùng tôi và anh Thuận sẽ đi sâu vào trong núi theo sự chỉ dẫn của một người bản địa. Mọi thứ ở vòng ngoài buộc lòng phải trông cậy vào bác tài, nếu như có biến thì chúng tôi sẽ đánh điện cho bác để thuê người thạo đường lên cứu cánh. -Chúng ta cùng nhau đến được đây đã là một cơ duyên hiếm gặp. Lần này hai con theo chân ta đi tìm bảo vật quả thực là lành ít dữ nhiều. Giữa cái nơi rừng thiêng nước độc này chẳng ai có thể đoán trước được điều gì sẽ xảy ra. Họa chăng, nếu như tai họa ập đến, hy vọng hai con luôn giữ được sự tỉnh táo để cứu lấy thân mình.Thầy Hữu nói vậy chứng tỏ chuyến này ngay cả bản thân của thầy cũng khó lòng mà đảm bảo được sự an toàn của chính mình chứ đừng nói gì tới tôi và anh Thuận. Dẫu vậy, tôi vẫn tin tưởng rằng, chuyến đi lần này ắt sẽ có thu hoạch đáng kể. Phần vì trong mấy người chúng tôi chẳng hề có ai nao núng trước lời cảnh báo của thầy Hữu, phần cũng vì sự hiếu kỳ nhất định của bản thân mỗi người đối với những việc kỳ bí nơi non ngàn. Đoạn anh Thuận ghé tai nói nhỏ với tôi, -Sao tự dưng anh thấy lạnh quá, từ khi lên đến cái đất này anh cứ cảm thấy bất an. Sợ thì không phải là sợ, nhưng anh đang thấy mình giống hệt như bị theo dõi.Anh Thuận nói rồi ngó quanh một vòng ra vẻ như nghiêm trọng lắm, con người này tuy hành động xuề xòa nhưng thực chất mọi việc đối với anh ta đều có phần chu toàn. Nếu như linh tính của anh Thuận đã có điềm báo trước như vậy, chắc chắn lần này vạn sự bất cầu nhân. Tôi liền quay sang đối đáp với anh Thuận thêm vài câu nữa thì thầy Hữu cũng đồng thời ra dấu cho chúng tôi lên đường. Ngọn núi phía trước vẫn đang rầu rĩ dưới sự che phủ của màn đêm tịch mịch. Thỉnh thoảng, vài tiếng chim ca thú hát bỗng vọng về từ ngàn trùng như thể đương mời gọi con người ta đến với sự bí ẩn của miền sơn cước. Chúng tôi đi theo sự chỉ dẫn của người bản địa được quá bảy số thì cùng đường. Trước mặt chỉ thấy trùng trùng điệp điệp là những ngọn cây cao vút, tán cây xòe rộng rủ cả xuống mặt đất tựa hồ như sự bao bọc của núi rừng đối với cái màn đêm u uất trên đất mẹ. Vài nguồn sáng yếu ớt từ chiếc đèn điện cầm tay không đủ để chúng tôi nhìn rõ được sự khuất ám sau những thảm cỏ chi chít đương quấn lấy cổ chân người đi đường. Anh Thuận và người bản địa phải xưng phong đi trước hòng mở đường, còn thầy Hữu cùng tôi ở phía sau cứ thế mà men theo, tất cả phải bám sát nhau vì nơi này cây cao núi hiểm nếu như có lạc thì quả thực là khó sống. Chốc chốc, tiếng chim rừng lại ngân lên cao tít khiến cho con người ta bớt đi được phần nào là sự cô liêu, quạnh vắng. Chợt, anh Thuận và người bản địa khựng lại, khuôn mặt lộ rõ là sự sửng sốt, họ chỉ tay sang hai bên rồi quay lại nói với thầy Hữu, -Hình như chúng ta lạc rồi. Thầy Hữu vội vàng đáp, -Sao có thể lạc được, ông là người bản địa ở đây, chẳng lẽ lại không biết nhìn bản đồ xem đi hướng nào hay sao? Người dẫn đường khuôn mặt ủ rũ, ông ta nói,-Tôi ở đây từ nhỏ, cuộc đời gắn với núi rừng, đến từng ngọn cỏ, tán cây, cái nào lớn bé cao thấp ra sao tôi cũng đều nắm trong lòng bàn tay. Mấy người thuê tôi thì ắt bản thân tôi sẽ có trách nhiệm đưa mấy người đến nơi đến chốn. Theo như địa đồ trên tấm vải này thì chỉ cần thẳng hướng bắc mà đi chừng hai cây số nữa là ắt sẽ đến được hồ nước. Việc lạc đường trên núi rừng tất có nguyên nhân của nó, không biết lý do thật sự mà mấy người muốn lên đây là để làm gì?Thầy Hữu chần chừ, ban đầu chúng tôi định giấu người này về mục đích của chuyến đi. Phàm là con người, khi nghe đến việc đi tìm bảo vật thì liệu rằng có thể thoát khỏi được vòng lặp của sự tham lận. Chính vì thế, để đảm bảo cho mọi thứ được an toàn, chúng tôi buộc lòng phải giữ kín thông tin. Mãi cho đến khi người dẫn đường nhất quyết khẳng định rằng việc lạc đường có liên quan tới gốc rễ của vấn đề mà chúng tôi đang giấu kín nên thầy Hữu mới phân trần,-Mấy người chúng tôi từ dưới xuôi lên đây cũng chẳng có mục đích gì cao siêu cả. Thực lòng cũng chỉ là muốn mượn tiền nhân một món đồ vật để cứu người. Sơ qua như vậy có lẽ bác sẽ hiểu. Người đàn ông trung tuổi đứng phía đối diện nghe xong thì chừng mắt. Có lẽ những gì mà thầy Hữu vừa nói đã khiến cho ông ta không khỏi kinh ngạc. Đoạn ông ta châm điếu thuốc để lấy lại bình tĩnh, giọng nói lúc đó tự nhiên có phần dè chừng, e ngại, -Ý ông là mượn của người đã khuất ấy à? Cái này thì tôi không giúp được mấy người rồi. Trước đây tại khu rừng này cũng từng có mấy người kéo nhau đến để đi tìm cổ vật, họ cũng thuê tôi như mấy người. Nhưng đấy, mấy người xem, ai cũng như ai cả thôi, quanh đi quẩn lại một lúc là cùng đường, không đi tiếp được. Bản thân tôi đã quen sống với núi rừng nên tìm kiếm đường về thì nhanh lắm, mấy người có muốn về thì tôi dẫn đi. Chứ còn nếu tiếp tục hành trình này thì tôi xin phép được dừng lại, có tiền tôi cũng chịu, đi tiếp ắt tự rước họa vào thân. Tôi còn gia đình nên không thể liều mạng vì mấy người được. Thầy Hữu càng ra sức thuyết phục thì người đan ông này lại càng cố gắng khước từ. Ông ta một mực khẳng định rằng sẽ có người phải vong mạng nơi rừng thiêng nước độc nếu như cố gắng đi tiếp. Bất đắc dĩ, chúng tôi đành phải tự mình hành sự một cách đơn độc. Trước khi rời đi, người đàn ông trung tuổi không quên chỉ điểm cho chúng tôi về đường đi nước bước. Khi cái màn đêm đen tuyền phía trước vừa kịp nuốt trọn đi dáng dấp của người đàn ông bản xứ, anh Thuận mới quay sang thầy Hữu mà nói, -Những người như này thật khó lòng tin tưởng, ông ta đã nắm rõ trong lòng bàn tay mươi phần của tấm địa đồ. Nay ông đột ngột ta bỏ đi cũng thật khó mà dự liệu được là do kính thần sợ quỷ hay vì là đã có dã tâm muốn độc chiếm bảo vật của chúng ta. Theo thầy thì mấy người chúng ta có nên đi theo sự chỉ điểm của lão hay không? Thầy Hữu băn khoăn một hồi, đúng là không thể không nghi hoặc cho người đàn ông bản địa về cái thứ gọi là lòng tham. Nhưng giữa nơi cô liêu độc quạnh như này, nếu như không tin tưởng vào sự mách bảo của ông ta thì chúng tôi cũng hết cách. Thầy Hữu quyết chí đánh liều một phen, ra dấu cho chúng tôi đi tiếp tục lên đường, mặc cho anh Thuận đã có phần can gián. Đường càng vào sâu trong núi thì lại càng khó đi, cây cối chằng chịt đan xen khiến cho con người thật khó để xác định được phương hướng. Ba người chúng tôi đánh vật hơn nửa giờ đồng hồ trên đường thì anh Thuận bất ngờ dừng bước. Ngay cả thầy Hữu ở phía kế bên cũng không giấu đi được là sự bất ngờ. Hai người này mồ hôi vã ra như tắm, ánh mắt lo lắng đến tột cùng. Anh Thuận vì thấy sự rối ren mà liền nói sang với thầy Hữu, xem cách nói chuyện thì như thể đang gấp rút lắm, -Lại về chỗ cũ rồi, ba người chúng ta chỉ đi thẳng không rẽ ngang rẽ dọc, sao lại có thể như vậy được. Thầy nên cân nhắc xem thế nào, liệu có phải ba người chúng ta bị ma dắt đường không?Thầy Hữu hít một hơi thật sâu, giữa nơi hương rừng gió núi, con người ta thật sự rất cần hòa mình vào với non ngàn để phần nào trấn tĩnh trở lại. Đoạn thầy Hữu nói, -Nơi này âm khí hưng vượng, cây cối lại um tùm rập rạp che phủ khắp cả bầu trời. Tiết khí như vậy thì việc gặp phải sự quỷ mị âu cũng là chuyện thường tình. Nhưng vốn dĩ, những thứ âm tà này không thể xử lý một cách nhanh chóng được. Chi bằng, chúng ta cứ theo lời của thầy Hải, thắp sáng đôi đèn uyên ương lên, biết đâu lại có huyền cơ giúp qua được ải này.Anh Thuận liền đồng tình với thầy Hữu, đoạn nhanh nhẹn lấy hai chiếc đèn cầy ra định đốt lên thì lập tức có sự lạ xảy đến. Phía trước, cách chúng tôi chỉ chừng vài mét, len lói qua những thân cây đại thụ, hình ảnh thấp thoáng của một cô bé mặc áo chàm thêu hoa trông rất đượm màu. Bên hông thì thắt một dải lụa xanh có đính kim tuyến trông thực bắt mắt. Nhìn trang phục và dáng vẻ của cô gái này thì hình như không phải là người ở dưới xuôi. -Quái lạ, giữa nơi rừng núi biền biệt tự nhiên lại xuất hiện một cô bé. Trông bước đi và dáng vẻ của cô bé này thì hình như là đã quen với địa hình hiểm trở nơi đây. Anh Thuận lẩm bẩm, chắc hẳn trong lòng anh ta cũng đang sinh ngờ vực giống tôi. Giữa cái nơi sơn cước hiếm người qua lại này bỗng dưng lại xuất hiện một cô bé, thực khó lòng để có thể tin được vào mắt mình. Chợt, có tiếng hát trong veo từ phía cô bé vọng lại, cái thứ âm sắc ấy cứ ngân lên trầm bổng tựa hồ như tiếng đàn cầm xa tít ở trên non ngàn. -" Nửa đêm giờ tý hiện hình, áo chàm hoa thắm đai xanh mỹ miều. Giận hài xảo, lưng đeo cung tiễn, hú ba quân tiến thẳng rừng sâu. Lệnh truyền Mán khắp mọi sơn đầu, nghe cô hạ lệnh rủ nhau mà về"Mấy lời hát của cô bé thực khiến cho con người ta cảm thấy lòng mình tràn đầy nhuệ khí, trí lực trở nên sảng khoái khôn cùng. Riêng thầy Hữu thì vội vàng châm hương khấn lậy. Khấn rằng, -Con xin cúi lậy cô bé Thượng Ngàn, người trần mắt thịt chúng con đã làm kinh động đến miền sơn thủy. Mong cô giá ngự tuần hành khuông phù cho chúng con được hanh thông thủy bộ, vượt đèo, lội suối, thỉnh uy thần kiếm, cứu họa sát thân. Cô bé phía trước chỉ trong chớp mắt đã phi thân về tít xa. Thầy Hữu nhanh tay ra dấu cho chúng tôi chạy theo. Con đường rừng vốn dĩ lởm trởm trơn trượt là thế mà nay dễ đi đến kỳ lạ. Càng đi, càng thấy ánh trăng soi rõ tỏ tưởng, từng thảm cỏ đen tuyền trải dài dưới mặt đất như đang rẽ đường chào đón những người con của đất mẹ. Cái hương vị độc đáo của thứ gió núi mưa ngàn bốc lên phảng phất cuốn lấy con người ta nghe sao mà khoan khoái dễ chịu quá. Chúng tôi theo chân cô bé kì lạ đến một con nước thì mất dấu. Lúc này chỉ còn thấy thoang thoảng có tiếng ca nhè nhẹ rồi dứt hẳn,-"Đường về chúa Bạch bao xa, cô đi hái trái thanh trà chín cây. Tiện đường cô đã về đây, về đền Bắc Lệ vui vầy suối khe".Bấy giờ, trước mắt chúng tôi thoạt nhiên thấy xuất hiện là cảnh sắc non thủy hữu tình đến huyền ảo. Cả một hồ nước rộng lớn đương nằm gọn trong sự ôm ấp của trùng điệp núi rừng. Dưới ánh trăng đêm vành vạch, từng cành cây khép nép uốn mình vươn dài xuống mặt hồ, thực tựa như bóng dáng thướt tha của mấy thiếu nữ còn đang vẻ xuân sắc. Vài đợt sóng nước dập dìu nổi lên qua lại làm phản chiếu thứ ánh sáng đa chiều trên bầu trời, tất thẩy vì thế mà trở nên lấp lánh đến khôn cùng, quả thực là kì ảo. Bốn bề lúc này râm ran là tiếng trò chuyện của muôn thú, âm thanh rộn rã như thể muốn con người ta phải say đắm trong cái mộng cảnh vật. Ba người chúng tôi thả hồn theo sự mê hoặc của bức tranh rừng núi cho đến tận khi thầy Hữu bất ngờ lên tiếng,-Chắc chắn là nơi này rồi, có lẽ tiền nhân cố ý muốn giúp đỡ chúng ta. Lần này may sao trong họa đã có phúc, hành động tiếp theo có lẽ phải dựa vào thực lực của bản thân. Thuận thắp hai cây đèn cầy lên, ta muốn xem huyền cơ trong hai cây đèn này ra sao.Anh Thuận đưa mắt sang tìm sự trợ giúp của tôi. Đoạn lấy ra hai cây đèn cầy cùng hai hộp quẹt, anh Thuận dặn kỹ, -Nhớ lấy, đèn mà không sáng lên cùng lúc thì ắt gặp phải họa sát thân.Lời nói của anh Thuận hệt như những gì mà thầy Hải đã căn dặn lúc trước. Hai người chúng tôi cẩn trọng nhìn nhau hành sự, trong lòng có chút hồi hộp về những gì sắp xảy ra tiếp tới. Chợt, ngay sau khi ngọn lửa từ hai cây đèn lay lắt sáng lên thì ba người chúng tôi lập tức thấy có mấy bóng đen chạy vụt qua trước mặt. Tất cả chỉ xảy ra trong tích tắc nên rất khó để xác định được là thực hay ảo. Thầy Hữu quan sát xung quanh một lượt, đoạn bảo tôi và anh Thuận cầm đèn đi men theo hồ nước xem có gì lạ không, thầy sẽ theo sau để cảnh giới. Ba người chúng tôi dưới thứ ánh sáng bập bùng của hai cây đèn cứ thế lần mò từng bước một trên vùng nội cỏ u tịch. Thoạt, có tiếng người ngêu ngao hát ở phía đối diện, lần này là tiếng hát của một người nữ nhi trung tuổi. Ba người chúng tôi vì thế mà đứng lại tập trung nghe ngóng, đoạn thấy có vẻ như rầu rĩ u sầu lắm, -Bao năm thác cốt nơi rừng núi, một lòng chung thủy giữ thần binh. Tình xưa nghĩa cũ sao chẳng thấy, chờ ngọn uyên ương thỉnh hồn về.Tiếng hát cứ thế trôi nổi giữa cái màn đêm nhạt màu, nó cuốn lấy tâm trí của con người và khiến cho ta có phần nào đó phải nặng lòng theo thứ âm sắc đương quanh quẩn bên tai. Thoạt, có tiếng nữ nhân gọi nhau nghe thật rộn rã, anh Thuận thấy thế thì liền đánh tiếng cho tôi,-Nhìn, nhìn xem, đằng kia là thứ gì vậy. Tôi lập tức phóng tầm mắt về phía trước, giữa ánh trăng đêm hư thực lẫn lộn, hình ảnh mấy người thiếu nữ mỹ miều đương ngồi giỡn nước đùa mây ở sát mép bờ trông thực kì dị. Mái tóc của họ mượt mà uấn lượn dài quá người đến chạm xuống cả mặt nước, phải khó lắm tôi mới thấy được những cử động của họ. Bấy giờ, không rõ là do vô tình hay hữu ý, một trong mấy người thiếu nữ đương xuất hiện bất ngờ đứng dậy, cô ta vẫy tay về hướng chúng tôi rồi quay lưng bỏ đi khuất bóng giữa cái màn đêm đen đặc. Cả kinh, tôi liền nói nhỏ sang với thầy Hữu, thầy Hữu hình như cũng nắm bắt được tình hình nên ra dấu cho tôi yên lặng để tiếp tục quan sát. Chừng mươi phút, trên không xuất hiện ba tiếng nổ đinh tai nhức óc, mấy bóng thiếu nữ sau đó cũng lập tức biến mất. Tôi và anh Thuận lấy làm lo lắng, riêng thầy Hữu thì cứ nấn ná không hề manh động, xem bộ dạng thì quả thực là Thầy vẫn đang rất điềm tĩnh. Đoạn anh Thuận thủ thỉ, -Thầy Hữu, thiên tượng có sự lạ, bây giờ chúng ta phải làm gì tiếp. Thầy Hữu lúc đó vẫn im lặng, hai mắt hướng thẳng về phía trước, toàn thân không hề có sự chuyển động. Thấy vậy, anh Thuận liền cầm cây đèn dơ ra trước mặt thầy Hữu. Giật mình, thầy Hữu liền khua lên tay ngang mặt, anh Thuận do đó mà không kịp phản ứng lại nên mới bất cẩn làm rơi chiếc đèn cày. Ngay khi ngọn lửa vừa tắt, trời bất đầu nổi trận cuồng phong, mặt hồ sóng nước dao động một cách giữ dội, mấy tán cây lớn va đập vào nhau tạo nên tiếng động tựa như sự gầm thét của núi rừng. Thầy Hữu trông cảnh tượng trước mắt thì hô hoán rất nhanh, -Tắt hết đèn cầy đi rồi thắp lại, nhanh lên!Tôi luống cuống dập ngay ngọn đèn cầy đang cháy sáng, anh Thuận ở kế bên cũng đã ổn định. Hai người lại bắt đầu đồng nhất nhìn nhau thắp đèn như ban nãy. May thay, khi ngọn lửa vừa sáng lên thì trời đã quang mây, cuồng phong cũng theo đó mà tan biến. Thầy Hữu đoạn quay sang nói, -Cẩn thận kẻo bị mê hồn, ở đây rừng thiêng nước độc, mấy bóng nữ nhân vừa rồi chắc hẳn là oán linh của những cô gái xung phong thời chiến đã bỏ mạng nơi thâm sâu cùng cốc. Tiếng nổ vừa rồi trong thời chiến được coi như tiếng báo hiệu khi quân ta bị địch phát giác. Chúng ta đi sang bên đó xem sao, hy vọng là sẽ tìm kiếm được manh mối. Thầy Hữu chỉ tay về phía đối diện, ba người chúng tôi lại men theo con nước mà đi tiếp. Được một đoạn, tôi nghe thoang thoảng như có tiếng hành quân mốt hai rất đều đặn ở phía sau. Mà không chỉ riêng tôi bắt được thứ âm thanh này, ngay cả anh Thuận cũng có vài phần cảm nhận được nên cứ ngoảnh đi ngoảnh lại để cảnh để cảnh giới, duy chỉ có thầy Hữu là vẫn thản nhiên rảo bước. Bấy giờ, chúng tôi đã đến địa điểm mà mấy bóng nữ nhân vừa rồi xuất hiện. Thầy Hữu đảo quanh một vòng để xem xét sự tình, đoạn cắm cơ man nào là hương và thuốc lá xuống đất, kể cả hai ngọn đèn cầy uyên ương cũng không nằm ngoại lệ. Đoạn thầy Hữu khấn vái tứ phương, giọng nói thủ thỉ rất khó nghe, -Tấu lậy quan thần địa đất, tấu lậy bách vạn vong linh, oan gia trái chủ. Chúng tôi vốn dĩ không phải là người ở địa hạt này, nay đến đây thắp đèn dâng nhang xin được chỉ đường đi tìm thần binh lợi khí. Nếu như có duyên thì xin các vị linh ứng cho chúng tôi được biết. Thầy Hữu vừa dứt lời thì mấy cây nhang đồng loạt cháy bừng lên. Anh Thuận đứng ngay cạnh tôi lúc ấy bất ngờ ngồi bệt xuống đất. Anh ta lúc thì cười sằng sặc như điên như dại, lúc thì lại ôm mặt khóc nức nở trông thực sầu lòng. Thầy Hữu thấy biểu hiện của anh Thuận như vậy thì liền an ủi, -Thế cô là ai đấy? Nhập vào cậu này muốn nhờ vả điều gì? Cô cứ nói với chúng tôi, khéo khi chúng tôi lại giúp đỡ được cô. Vong linh trong người anh Thuận gào lên một cách thảm thiết, -Chết, chết hết rồi, làm gì còn ai, bọn giặc đánh úp từ đường số bốn chiếm được Thất Khê, tuyến phòng thủ của trung đoàn 199 tan vỡ không còn ai ở lại mặt trận nữa.Vong linh càng nói thì thầy Hữu lại càng xúc động, ánh mắt trùng xuống lộ rõ là những nỗi muộn phiền. Đoạn thầy Hữu ân cần, giọng nói thể hiện sự đồng cảm của những người đã từng đi qua thời loạn.-Đồng chí, chiến sự giờ đã ngưng, đất nước bốn bề được yên bình. Tôi biết, đồng chí đang rất đau xót, số phận của những người đã từng tham gia mặt trận trên biên năm ấy thật hẩm hiu. Nhưng đồng chí à, nhân thế luân hồi có tử thì ắt sẽ có sinh. Sự ra đi của các đồng chí đã góp phần to lớn đem lại hòa bình cho dân tộc. Hay để chúng tôi góp sức đưa hài cốt của đồng chí về với gia đình, người thân. Đồng chí thấy ý kiến của tôi như thế có được không? Vong linh lúc này đã ngưng khóc, cơ thể cứ gật gù ngả nghiêng sang hai bên, lúc thì ngả người ra đằng sau như sắp ngã, lúc thì lại cúi gầm mặt xuống đến tận sát đất. -Chúng tôi ở đây có bốn người, trong đó một người mới ra trận được vài tháng thì hy sinh. Ba người còn lại bao gồm cả tôi thì bị địch bắt rồi giết ngay trong địa phận của thị trấn Thất Khê, thân xác hồn vía đã vĩnh viễn bó buộc vào với núi rừng. Nay mấy người đến đây, ta vì cô đơn quá mà muốn nhập xác để trò chuyện, nếu có cơ hội thì thỉnh thoảng tới đây thắp cho ta nén nhang. Ta đi đây, nhường chỗ cho người thật sự có cơ duyên với ba vị.Thầy Hữu còn chưa kịp nói lời bái biệt thì anh Thuận đã đưa tay lên vuốt ve mái tóc hệt như cách hành xử của người nữ nhi. Cử chỉ này của anh Thuận khiến cho thầy Hữu có đôi phần bất ngờ,-Cô đây là? Thầy Hữu ngắt ngứ, vong linh nhìn hai người chúng tôi luống cuống thì liền cười nhẹ rồi trả lời, -Tôi là người nắm giữ huyền cơ trong hai ngọn đèn cầy, cũng là người đã tự tay tạo ra tấm địa đồ mà mấy người đang sở hữu. Không ngờ sau ngần ấy năm, hôm nay đã có người đem theo những tín vật này đến đây, thật khó lòng mà tin được. Âm sắc trong giọng nói của vong nữ này nghe thực nhẹ nhàng, tưởng chừng như đang rót mật vào tai. Nhưng quả thực, nếu như để ý kỹ, lời nói của người này còn khiến cho ta thấy được đây là một nữ nhi sắc xảo, khôn ngoan, tuy có sự phô trương những vẫn giữ được vẻ lịch thiệp, thực là hiếm có. Thầy Hữu chắc chẳn cũng có sự cảm phục trước cá tính của người này nên mới nói ngay,-Bình sinh chắc cô là người tài trí khôn cùng, Hữu tôi xin bội phục. Nhưng vừa rồi cô có nói rằng những món bảo vật này là do cô tự tay làm ra, vậy lẽ nào cô và thầy Hải là chỗ quen biết?Vong linh hạ giọng, mới chỉ nói đến đây thôi mà hai khóe mắt đã trực trào đổ lệ.-Tôi và anh Hải vốn dĩ có mối quan hệ mật thiết, tôi là người Hải Dương, cùng thôn quê lối xóm với anh Hải. Năm ấy tôi cùng anh từ Hải Dương ra Hà Nội kiếm sống, chúng tôi ban đầu là vì cái tình làng nghĩa xóm mà giúp đỡ nhau, sau này thấy lối sống có phần tâm đầu ý hợp nên nảy sinh tình cảm. Chuyện gì của anh Hải tôi cũng biết, ngay cả câu chuyện anh nhận sự ủy thác của người cha quá cố đi tìm trấn gia chi bảo tôi cũng rất rõ. Thậm chí, tôi đã từng cùng anh vứt bỏ đi hết công việc mà xuôi đường từ nam chí bắc để tìm hỏi tung tích của bảo vật. Được hơn hai năm, anh Hải xung phong tòng quân lên vùng biên phía Bắc. Tôi hay tin ấy thì cũng nhờ người thân xin cho đi theo anh Hải vào bên quân nhu. Anh Hải đóng quân ở đoạn thị xã, đơn vị của tôi và anh ấy cách nhau chừng sáu bảy mươi cây. Ngày ấy, tôi thường cùng với mấy người đồng đội đi xuyên rừng lên biên để mang hàng tiếp ứng cho mặt trận. Cũng chính vì thế mà tôi vô tình phát hiện được địa điểm cất giấu thần kiếm của tiền nhân Trần thị. Vì sợ chuyện này bị phát giác, anh Hải dặn tôi cứ vẽ một bản thảo chỉ đường dẫn tới ven hồ, sau này khi chiến tranh kết thúc sẽ tính tiếp. Nhưng nào có ai ngờ, chiến tranh thuở ấy loạn lạc, trung đoàn của anh Hải tan vỡ, toàn quân rút về tuyến phòng thủ thứ hai. Chúng tôi được cắt cử lên Thanh Khê để hỗ trợ cho những thương bệnh binh còn xót lại ở mặt trận, đội ngũ quân nhu và y bác sĩ chỉ khoảng mười người. Thật không may, khi chúng tôi vừa lên đến địa hạt Thanh Khê thì nghe tin giặc đã đánh ngược từ đường số bốn vào sau lưng của trung đoàn, giờ không thể quay xe được nữa, đi tiếp cũng chết mà lùi cũng chết. Tôi quyết chí xung phong mở đường, theo sau là ba người nữa, tốp còn lại tự chia ra đi tìm đường thoát thân. Năm ấy tôi phơi xác giữa trận mạc, trong ba lô vẫn còn giữ nguyên hai cây đèn cầy uyên ương mà tôi và anh Hải đã từng lấy làm vật chứng để thề non hẹn biển. Sau này, xác của bốn người chúng tôi được đưa về Hữu Lũng để chôn cất, đúng tại khu vực này. Anh Hải khi xuất ngũ có cùng đồng đội đến tìm và nhận lại mấy vật phẩm tư trang của tôi, bao gồm cả tấm địa đồ cùng hai cây đèn cầy. Ấy vậy mà đã hai mươi năm rồi, hai mươi năm của sự xa cách, hai mươi năm của những mất mát đâu thương. Chiến tranh thật khốc liệt quá, con mất cha, nhà mất nóc, có những người ra đi mà chẳng thể nào quay trở về được với quê hương nguồn cội.Vong linh nói đến đây thì không kìm được nước mắt, mấy ngon tay cứ đan vào nhau rung lên bần bật trông thực thương cảm. Thiết nghĩ, những người sinh ra ở thời bình như tôi thật khó lòng hiểu cho hết được sự tàn khốc của bom đạn. Những con người của lịch sử, những con người đã đánh đổi cả tuổi trẻ, sự nhiệt huyết, thậm chí là tính mạng của mình để đem về bình yên cho tổ quốc. Công đức trời biển của họ sau này liệu được mấy người nhớ đến? Hương hỏa nhang khói đâu bù đắp lại được so với những mất mát, những hy sinh này. Đâu đó, có thể là nơi thôn quê hay thành thị, vẫn có những bóng mẹ già bên cửa còm cõi chờ ngày con ra trận trở về.-Xin cô nén lại nỗi đau mà giúp đỡ cho chúng tôi lần này. Nhưng có điều tôi không hiểu, tại sao thầy Hải không đưa hài cốt cô cùng những người đồng đội về với quê nhà để được đoàn tụ với con cháu?Thầy Hữu dù thương cảm nhưng vẫn cố gắng để hoàn thành được công việc, phần cũng vì thời gian của chúng tôi lúc này đang có sự cấp bách. Vong linh nghe thế thì sụt sùi, -Số là trước khi lên đây, tôi và anh Hải có từng lập một lời thề. Theo đó, nếu như hai người chúng tôi cùng trở về bình an sau chiến tranh thì sẽ dùng hai cây đèn cầy này làm đèn cưới. Còn nếu chẳng may, một trong hai phải bỏ mạng nơi chiến trường, việc gặp nhau sẽ chỉ xảy ra khi hai cây đèn cày được thắp sáng cùng lúc. Bằng không, hồn phách của người đã khuất sẽ vĩnh viễn không bao giờ trở về dương thế, âu cũng là để tránh đi cái sự đau thương khi phải chia cách hai ngả âm trần. Hơn nữa, có lẽ anh Hải còn muốn giữ hai cây đèn này cho người có duyên với thần kiếm của Trần thị. Bởi lẽ, bản thân tôi chính là chìa khóa cuối cùng cho tấm tấm địa đồ.Đến đây, anh Thuận bất ngờ đổ gục xuống, toàn thân lạnh toát đến kỳ lạ. Đâu đó, phía sau những hàng cây cổ thụ đan xen trước mặt, trong cái bóng đêm hư thực, tôi chợt thấy có bóng người con gái kiều diễm đang lả lướt qua lại. Thứ hình ảnh ấy cứ lập lòe ẩn hiện trông thực kì quái. Bấy giờ, bốn bề thoạt nhiên trở nên im lặng, chỉ nghe thoang thoảng có tiếng nữ nhân bên tai, -Mấy người xin đi theo tôi, điểm đến cũng không còn xa nữa.Thầy Hữu vội vã đánh thức anh Thuận, ba người chúng tôi khó lắm mới bắt kịp được sự di chuyển của âm hồn. Chỉ ngoài trăm bước chân, ánh trăng dường như đã không còn soi rọi tỏ tưởng trên đỉnh đầu, bốn bề lúc này u tịch đến lạ thường. Có lẽ, đây mới chính là cái màn đêm đặc trưng của núi rừng, nó mang lại cho ta thứ cảm giác cô liêu, quạnh vắng, hệt như đang lạc vào thế giới của một màu đen huyễn hoặc. Anh Thuận nhanh trí thắp sáng hai chiếc đèn pin, một cầm tay, một đưa cho thầy Hữu. Chỉ trong vòng tích tắc, hình ảnh một người con gái đương ngồi trên mỏm đá vô tình lọt vào tầm mắt của tôi. Cả kinh, tôi liền đánh động cho thầy Hữu và anh Thuận biết. Chần chừ một lúc, thầy Hữu nói, -Đi về đằng ấy xem sao.Ba người chúng tôi nhanh chóng tiến về phía mỏm đá. Nơi này hình như địa thế hơi có phần khác biệt. Trước mặt, một dải đất cao, rộng, trải dài đến quá tầm mắt, nó sừng sững tựa hồ như bức bình phong cực đại được đặt giữa núi rừng. Ấy là cái suy nghĩ và nhìn nhận hạn hẹp của tôi về đất đai, địa thế. Còn đối với anh Thuận, người đã vào nam ra bắc đến mấy bận, anh ta gọi đây là sườn núi, nơi mà chúng tôi chỉ cần vượt qua là sẽ lên được đến tầng núi cao hơn. Đoạn anh Thuận sờ tay vào lớp đất đá trước mặt rồi từ từ di chuyển sang phía mé trái. Giống như bị thôi miên, tôi cũng theo sát từng bước chân của anh mà không cần biết lý do. Độ chục mét, anh Thuận khựng lại rồi lớn tiếng gọi thầy Hữu, -Thầy Hữu, tới đây mà xem này.Thầy Hữu bấy giờ vẫn đang quanh quẩn ở chỗ mỏm đá, thấy anh Thuận gọi gấp thì liền chạy lại, khuôn mặt thực hết sức hồ nghi. Thầy Hữu nói, -Không biết có đúng là chỗ này không nữa, ta đã xem xét rất kỹ mà không phát hiện ra được điều gì. Thuận thấy gì lạ không? Anh Thuận cầm tay thầy Hữu đặt vào vách đá, đoạn phân giải một cách kỹ lưỡng về hành động của mình vừa rồi, -Năm xưa cháu cùng cha vào rừng tìm gỗ có gặp một trận mưa lớn, lúc ấy đang đêm, cha cháu ven theo vách núi mà tìm được một hang động. Sau này, cha cháu có dậy lại rất kỹ, phàm là khi gặp sự hung hiểm nơi núi rừng, muốn tìm chỗ ẩn thân thì phải đến gần các vách núi mà dò xét. Nếu như thấy nhiệt độ trên lớp đất đá giảm dần về một hướng, nhất định phải men theo đó, kiểu gì cũng sẽ thấy được hang động. Thầy xem, vách đá này càng về bên trái thì càng lạnh buốt, nội trong vòng vài mét nữa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm được miệng hang.Không ngờ rằng anh Thuận lại có hiểu biết sâu rộng về nơi rừng núi như vậy. Con người này quả thực không tầm thường, tài trí của anh ta trừ việc xem tướng bắt quỷ khéo khi còn hơn cả thầy Hữu. Đoạn chúng tôi từ từ tiến sang mé trái, đúng như những gì mà anh Thuận nói, phía trước là một cửa hang động chỉ cao ngang đầu người, nó bị che phủ đi quá nửa bởi lớp cây cỏ dầy đặc. Nếu như không phải do ánh đèn pin vô tình tuật vào sâu trong hang thì chúng tôi cũng khó lòng mà nhận biết được. Thầy Hữu như mở cờ trong bụng khi thấy được thứ cần tìm, hai chân nhanh nhẹn tiến ngay đến cửa hang để xem xét. Bất giác, thầy Hữu khựng lại, toàn thân bất định không rõ lý do, khuôn mặt căng thẳng đến tột độ. Anh Thuận ra dấu cho tôi đứng yên rồi rọi đèn pin xuống đất. Bấy giờ, trên nền cỏ cao thấp lẫn lộn, chễm chệ là một con rắn hổ đang cuộn tròn thân mình như muốn ẩn nấp rình mồi. Đặc biệt, trên đỉnh đầu của nó, một chiếc mào nhỏ nhô lên trông rất dị hoặc, nếu như quan sát không kỹ thì khó lòng mà phát hiện được chi tiết này. Anh Thuận thấy thế thì giật mình, đoạn quỳ rạp xuống đất mà vái lấy vái để. Như có một thế lực vô hình, ngay khi anh ta thực hiện xong nghi lễ tam bái, con rắn liền quay đầu mà bò vào trong hang trước khi sự kinh ngạc của tôi và thầy Hữu. -Không ngờ ở nơi thâm sâu cùng cốc thế này cũng có loại rắn hổ mào. Ta cả đời mới chỉ gặp qua được hai lần. Tương truyền, đây là hiện thân của các vị nhân thánh, những người có công với xã tắc sau khi thác hóa muốn hiện hữu ở dương gian sẽ phải gửi mình vào thân xác của rắn mào. Loài này ít cắn người, muốn đuổi đi cũng phải có cách riêng, đã gọi là hiện thân của tâm linh thì ắt sẽ không bình thường như những loài khác. Chí ít, phải là người hợp vía, có sự thành tâm, khấn vái cầu đảo thì mới may sao thoát được nạn hổ xà. Thuận chỉ cần đến tam vái mà có thể mời được hổ xà vào hang thì chứng tỏ nơi này rất hợp với cậu ta. Để Thuận đi trước đốt đèn, ta và Quang sẽ theo sau.Thầy Hữu sau khi chứng kiến toàn bộ hành động của anh Thuận thì liền đưa ra đề nghị. Không chần chừ, anh Thuận xách đèn pin đi lên phía trước một cách mạnh bạo, con người này xem ra quả thực là can trường. Vì miệng hang nhỏ hẹp, lại bị cản trở bởi lớp cây cỏ đan xen, phải khéo léo lắm chúng tôi mới vượt qua được để vào bên trong. Nơi này quả thật kỳ lạ, không khí lạnh ngắt, khác hẳn so với bên ngoài, càng vào sâu thì hang động lại càng lớn, vách đá trên hang lởm trởm là những hình khối nhấp nhô bất định trông rất cổ quái. Chợt, hình như có thứ gì đó vướng víu dưới chân, nó tròn tròn, kích cỡ không to lắm. Tôi đưa mắt xuống nhìn thì kinh hãi, cả một đoạn xương dài ngoẵng, trắng ởn, xen lẫn là sỏi đá đang nằm ngay sát bên cổ chân mình. Tá hỏa, tôi hét lên gọi thầy Hữu, anh Thuận đi trước thấy động thì cũng lập tức quay lại, ba người chúng tôi nhìn nhau thất sắc. Đoạn thầy Hữu nói, -Đây chắc chắn là xương người, không lẽ trong hang động đã từng có..Không để thầy Hữu nói hết, anh Thuận nhanh chóng cướp lời, -Đâm lao thì phải theo lao, thầy Hữu và Quang cứ thụt lại hẳn ở phía sau, cháu đi trước dò đường, nếu như gặp vấn đề gì thì sẽ đánh tiếng cho hai người được biết. Thầy Hữu suy nghĩ một hồi, đối sách của anh Thuận có vẻ như không hợp lý lắm, -Thuận đi sau coi chừng Quang, để ta lên trước xem liệu trong này có thứ kỳ quái gì.Nói rồi thầy Hữu liền xách đèn nhanh nhẹn đi trước, tôi và anh Thuận cẩn trọng quan sát đường đi cùng hai bên vách đá trong lúc theo chân thầy. Hang động càng vào sâu thì lại càng rộng sang hai bên, chưa đến một cây số, chúng tôi đã đi đến tận cùng. Nơi này được tạo hóa nhào nặn thành hình vòng cung thực rất đồ sộ. Đặc biệt, chính giữa có một thứ hình chữ nhật dài ngang người, cao chưa đầy một mét, rong rêu phủ kín nên rất khó nhận định được là vật gì. Thầy Hữu và anh Thuận bấy giờ đã tiến sát lại, ánh đèn pin sáng rực khiến cho vật thể kỳ lạ càng lộ rõ. Đoạn anh Thuận hô lên,-Thầy Hữu, là một chiếc quan tài, thành quan tuy mục nát nhưng vẫn nhìn được là hình trạm trổ long phượng. Quan này niên đại có khi phải vài trăm năm, mùi gỗ rất thơm chắc chắn là loại thượng hạng. Theo cháu thì quan này dùng cho các bậc vương tôn quý tộc, người trong quan chắc chắn không tầm thường. Nhưng quan đã từng bị mở, chỉ sợ bên trong không có thứ gì.Thầy Hữu nghe anh Thuận nói thì lập tức thắp hai nén nhanh, hành động quả thực rất gấp gáp,-Chúng tôi không biết vị nào được mai táng ở đây, nay vì nhân nghĩa mà phải kinh động tới, xin lượng thứ cho. Nếu có sai lầm gì thì xin tìm Hữu tôi đây mà hỏi tội, không nên làm hại tới hai đứa trẻ này. Thầy Hữu đưa mắt sang phía anh Thuận, hiểu ý, hai người này liền dồn sức đẩy nắp quan ra sau. Được đến phân nửa thì anh Thuận dừng lại, mồ hôi vã ra như tắm, một tay xiết chặt lấy thành quan, một tay chỉ vào bên trong như thể đang sợ hãi lắm. Bấy giờ, cả tôi và thầy Hữu đều lập tức đưa mắt vào trong, quan tài này ngoài chiếc đầu lâu trắng ởn đang đặt trên một hộp gỗ ra thì tuyệt nhiên không có thêm thứ gì. Thầy Hữu vội vã đưa tay vào đặt chiếc đầu lâu sang bên cạnh rồi nhấc hộp gỗ lên trông rất cẩn trọng. Lúc ấy, hốt nhiên có cơn gió ập đến từ phía sau lưng, cả ba người chúng tôi không ai nói với ai câu nào. Nơi này ngày một khiến cho con người ta cảm thấy rùng rợn. Đoạn thầy Hữu ra hiệu cho ba người chúng tôi rời đi thật nhanh, chỉ trong chốc lát, chúng tôi đã đứng ở cửa hang, bỏ lại sau lưng tất thẩy những thứ quái dị mà con người ta không thể đoán biết được nguyên do.-Thuận thử mở hộp này ra xem trong đó có gì, ta nghĩ vật cần tìm đang ở trong này. Anh Thuận đón lấy chiếc hộp từ tay thầy Hữu, nhìn cách anh ta cẩn trọng phần nào cũng đoán được sự hồi hộp trong tâm lý của người này. Anh Thuận từ từ mở hai chốt ở giữa hộp, khuôn mặt bấy giờ căng thẳng đến tột độ. Ngay sau khi nắp hộp được mở ra, anh Thuận cười lớn, giống như vớ được vàng, anh ta hồ hởi quay sang tôi và thầy Hữu,-Có một thanh kiếm, thanh kiếm này giống hệt với thanh kiếm ở nhà thầy Hải. Là thần kiếm thật rồi, mẹ cháu cùng thằng Đoan được cứu rồi. Thầy Hữu cả mừng, ba người chúng tôi lập tức tìm đường xuống núi theo như chỉ dẫn ban đầu của người bản địa. Anh Thuận cởi áo gói ghém chiếc hộp gỗ rất cẩn thận, toàn thân khi gần xuống đến chân núi thì chi chít là những vết trầy xước do bị va phải cành cây. Về phía tôi, bản thân dọc đường hình như nghe được có tiếng vó ngựa rất mạnh ở sau lưng, nó dồn dập nhưng không hề vượt ngang tầm tai, lúc được lúc mất vô cùng kì lạ. Thầy Hữu ngay sau khi về đến điểm dừng chân ở quốc lộ thì liền đánh điện cho Tử Thanh. Đại khái, thầy Hữu muốn Tử Thanh cùng hai mẹ con cô Trà gấp rút đến đền Bảo Lộc Nam Định để hội họp cùng chúng tôi. Cũng không rõ ý định của Tử Thanh ra sao, nhưng thoáng chốc, tôi nhìn khuôn mặt của thầy Hữu có nét u sầu, lo lắng. Đêm ấy, thầy Hữu cùng anh Thuận trong gian trọ nói chuyện rất cao hứng, bác tài nằm cùng tôi trên giường thỉnh thoảng cũng thêm nếm vài câu cho bớt đi cái phần cô đơn nơi đất khách. Tôi nằm nghe được một lúc thì ngủ, cơn ảo mộng miên man cứ thế kéo tôi đến một thế giới hư ảo tựa hồ như chốn âm tào địa phủ. Ấy là một vị quan gia thân mang tử kim hoàng bào, người này cưỡi hắc mã trông thực uy phong lắm. Xét cách ăn mặc thì chắc hẳn không phải là bậc quan tước tầm thường. Người đó đến trước mặt tôi thì kéo cương dừng ngựa, ông ta cười lớn một tiếng rồi gật đầu tỏ ý khen ngợi. Đoạn nói, -Không cần kinh sợ, ta thân là Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác, Thái Tể dưới thời vua Đại Định tức Dương Nhật Lễ. Năm ấy Hiến Từ Thái Hậu lập Nhật Lễ lên làm vua kế vị cho Trần Dụ Tông. Nhật Lễ chỉ là con nuôi của Dụ Tông, cha đẻ hắn thực chất mang họ Dương. Sau khi lên ngôi, người này ăn chơi sa đọa, bỏ bê triều chính, hắn đón cha ruột là Dương Khương vào triều phong cho làm Lệnh Thư gia, tỏ ý muốn đổi Trần Triều thành Dương tộc. Bá quan văn võ trong triều hay tin này thì ai nấy cũng đều phẫn nộ, ta cùng Nguyên Tiết và hai người con của Thiên Ninh công chúa dẫn theo tôn thất nhà Trần xông vào cấm thành toan lật đổ Nhật Lễ. Nhưng kỳ thực, trời chưa chán nghiệp vua hai dòng, Nhật Lễ đêm ấy may mắn thoát được, ta cùng Nguyên Tiết lùng xục trong cung không thấy hắn đâu thì bỏ về. Sớm hôm sau, Nhật Lễ loan giá hồi cung, hắn chia người đi bắt hết những tôn thất họ Trần có liên quan tới việc binh biến cấm cung, tất thẩy là mười bảy người, trong đó có ta. Ngày hai mốt tháng chín năm Canh Tuất, ta cùng đồng đản bị khép tội chết. Vương tôn nhà Trần vì thương xót máu mủ nên bí mật đem xác ta mai táng trong hang động ở vùng Hữu Lũng. Cạnh ta còn đặt thêm một thần kiếm để làm tín vật cho con cháu đời sau biết được đây là tôn thất họ Trần. Nay các cậu vào hang mượn kiếm theo sự chỉ điểm của Trần Hải, sau khi đại công cáo thành thì hãy cùng hắn ta đến đây để làm lễ tạ.Vị quan gia nói xong thì liền biến mất, tôi lạc mình trong chiều không gian nhạt màu, buồn tẻ. Hình như có tiếng trẻ con gọi ngay kế bên tai, -Anh, anh ơi...Tôi biết đích thị đây là giọng nói của ai, nhưng tại sao nó lại xuất hiện bất ngờ vào lúc này? Thực khó lòng để có thể giải thích cho được. Bất giác, tôi trả lời trong sự vô thức,-Anh đây, sao lại đến tìm anh vào lúc này? Có chuyện gì gấp gáp hay chăng? Giọng nói đó lại từ từ cất lên, âm sắc nghe chừng như đang lo âu lắm, -Sau khi anh tỉnh lại, mau cấp báo cho thầy Hữu biết về trận yểm sông Bạch Hạc. Nơi này âm khí đương rất thịnh, sợ rằng long mạch đã bị gián đoạn. Chỉ chưa đầy chục ngày nữa, những người có liên quan tới trận yểm đều sẽ bị âm tà ám hại, quấy phá, thậm chí là cả gia đình họ. Bản mệnh của anh sinh ra đã gắn liền với những việc tâm linh, kì dị, trận yểm Bạch Hạc lần này cũng chính là một trong những thứ kì quái bậc nhất mà anh phải đối mặt. Bởi lẽ, anh là một trong ba người được chọn, chỉ khi hội ngộ được đủ tam niên xuất thế thì trận yểm mới được phá bỏ, long mạch mới được hàn gắn. Mong anh sớm ngày hoàn thành được âm nghiệp, giờ đến lúc em phải đi, hẹn gặp lại anh tại Bạch Hạc. Cơn mộng mị cứ thế mờ dần, tôi tỉnh dậy khi mặt trời đã đứng bóng, từng tầng mây xanh thẳm chen chúc nhau tạo thành một khối không gian đa chiều, bất tận. Mọi thứ đổ về dưới tầm mắt qua khung cửa sổ nhỏ bé, thực khiến cho con người ta cảm thấy nặng lòng, trống trải, hệt như sự vô đinh của những cánh chim trời lạc lõng. Thầy Hữu hối thúc tôi chuẩn bị đồ đạc, quãng đường từ Hữu Lũng trở về Nam Định như dài thêm cùng với sự lo toan của con người. Duy chỉ có anh Thuận, khuôn mặt anh ta vẫn nở rộ là những đường nét tươi nhuận, thỉnh thoảng điểm thêm vài ánh mắt đượm buồn thật thi vị. Về phần thầy Hữu, con người này bụng dạ chứa đầy những suy tính, từ khi nghe tôi thuật lại giấc mơ của mình, thầy Hữu cứ thả hồn đăm chiêu mãi vào thứ cảnh sắc ngoạn mục của núi rừng qua lăng khung cửa. Có lúc, thầy ngả người vào thành ghế, tay cầm điếu thuốc du lịch đã tàn hơi, miệng tự lẩm bẩm than thân trách phận.Đoạn, chiếc xe bốn chỗ bất ngờ dừng lại, bác tài ra hiệu cho chúng tôi yên vị trên xe để tự mình xuống xem xét, kiểm tra. Theo như thầy Hữu thì lúc này chúng tôi đã đến bên bờ sông Châu Giang, khoảng cách tới đền Bảo Lộc cũng không còn xa, nếu như xe cộ gặp vấn đề thì hoàn toàn có thể tự túc được về phương tiện. Ba người chúng tôi trò chuyện hồi lâu mà vẫn chưa thấy bác tài lên xe. Nóng lòng, anh Thuận liền mở cửa xuống hỏi. Bấy giờ, bác tài luốn cuống, tay chân thoắt thoắn mà không được việc. Cuối cùng, đành gọi cả tôi và thầy Hữu xuống để nói chuyện, -Mọi người xem như nào, xe cứ nổ ga là chết máy, khéo khi thầy Hữu phải thuê xe ôm cùng với hai đứa mà đi vào trong nhà đền thôi. Tôi lo xong xuôi việc sửa chữa thì sẽ gặp lại mấy người ở đấy sau. Thầy Hữu im lặng trước lời đề nghị của bác tài, đoạn kỹ lưỡng dò xét vòng quanh chiếc xe đến mấy lần. Dường như, thầy Hữu đang có nhận định hoàn toàn khác về nguyên do dẫn đến việc xe hỏng. Chúng tôi nghỉ chân tại một quán nước ven đường, cách nơi chiếc xe chết máy không xa. Chủ quán là người đàn ông có khuôn mặt âu sầu, buồn bã, ánh mắt phần nào thiếu đi sự tự tin vào chính mình, Ngay cả khi chúng tôi bước vào, sự niềm nở của ông ta cũng không thể che đậy đi là được những đường nét cô đơn, độc quạnh. Thầy Hữu lễ phép chào hỏi, sau vài lời xã giao mang tính thường nhật, thầy Hữu liền đánh bạo, -Xin hỏi bác ở dọc con đường này, tính từ chỗ cái xe của chúng đổ lại đến đây, nội trong vòng vài tháng, liệu có ai chết một cách bất đắc kỳ tử hay không? Người đàn ông nghe thế thì giật mình, tay cầm cốc nước chè mà run lên bần bật, ông tả tỏ rõ vẻ sợ sệt trước những lời nói của thầy Hữu. Trước lúc định thần trở lại, người đàn ông này đảo mắt về phía bên phải một quãng rồi mới nói, -Tôi không biết mấy người ở đâu đến, nhưng thật sự cách đây non hai tháng trời, quả là có một vụ khiến cho dân trong dân ngoài ở cái vùng này phải kinh động. Đấy, ngay cái chỗ các chú đang ngồi uống nước, ngày xưa tấp nập lắm, cứ độ hai giờ chiều là dân ở đây lũ lượt kéo nhau ra bán quán. Vì là đông người qua lại, quán nước lìu như tôi ít cũng phải được hai ba trăm một ngày, thế thì ai chả máu bán. Nhưng kể từ dạo có cái ông người Tàu chết giữa đường, chẳng còn ai dám vác xác đến đây để mà bày bàn bày ghế. Duy nhất có mỗi tôi chán đời, gia đình thì không, lấy hàng nước làm cái thú vui nên mới đánh bạo ra đây.Anh Thuận hiếu kỳ, lập tức hỏi dồn người đàn ông nọ,-Vậy cụ thể là như nào hả ông? Người đàn ông xua tay, chậm rãi kể tiếp, -Mấy chú cứ bình tĩnh, nhâm nhi chén chè đặc cho tỉnh táo con người rồi tôi sẽ kể tiếp. Số là như này, hôm ấy trời đất mịt mù, mây đen gió bão kéo đến như sắp mưa to, mấy người chúng tôi đang thu dọn đồ đạc để về nhà thì tự nhiên nghe thấy tiếng kêu gào rõ lớn. Nhưng kỳ lạ, ngôn ngữ của người này nghe qua đã biết là không phải dân ta, tôi lúc ấy buông đồ đạc xuống, chạy ra xem thì tá hỏa. Ba người đàn ông, hai xe máy, một người thì tỉnh táo nguyên vẹn, một người thì máu mồm máu mũi trào ra không ngừng. Người thứ ba thì hành động còn kì quặc hơn, anh ta quỳ gối hướng mặt về phía sông, hai tay chắp xuống khấn vái liên hồi, mồm lẩm bẩm mấy câu phổn ngữ tôi nghe cũng không hiểu. Sau đấy nhiều ngày, cứ đến độ hơn mười giờ tối, chúng tôi theo lệ dọn dẹp hàng quán, đầu tiên là mấy bà bán nước ở phía mạn trên gặp phải, sau đó thì đến tôi. Anh Thuận dường như bị cuốn vào sự li kì của câu chuyện mà ông hàng nước thuật lại. Càng nghe, anh ta càng tỏ rõ là sự tập trung cao độ, dù chỉ là một phút nhỏ nhặt, anh Thuận cũng không thể rời mắt được khỏi được khẩu hình miệng của người đàn ông. -Cũng không rõ là ma hay người, chúng tôi cứ xách đồ về đến đoạn mà mấy ông Tàu gặp tai nạn là y như rằng thấy có lão trung niên thất thiểu đi phía trước. Thỉnh thoảng, nó quay lại vẫy tay như muốn gọi mình, đến lần thứ ba mà nó không thấy mình đi sát lên là sẽ biến mất. Tôi gặp nhiều nên đâm ra đếch sợ, duy có đến một hôm mà tôi nhớ mãi, lúc đó phải chừng gần nửa đêm, tiết trời nóng bức nên đông khách ra ngồi thuốc nước lắm. Đến khi đã vẫn cuộc, mọi người ra về gần hết, tôi tranh thủ vừa dọn hàng vừa ăn cái bánh mỳ cho ấm bụng. Thế nào, tự nhiên lại có một người nam nhân, anh ta ăn mặc sang trọng, đầu tóc gọn gàng đến gọi nước. Tôi hôm ý kiếm cũng đủ rồi, đang dọn hàng nên đâm ra lười, đành phải từ chối không bán nữa. Cậu ta thấy thái độ của tôi như vậy thì liền cầm tờ tiền đặt ngay xuống bàn, nhưng các bác ạ, đấy là tiền âm phủ. Tôi quay đi quay lại thì đã không thấy cậu ta đâu nữa, tờ tiền trên bàn tự nhiên bốc cháy rồi hóa tro. Biết bị ma trêu, tôi vớ vội lấy bó hương trong làn mà đốt lên. Hôm ấy về nhà vừa đi vừa sợ, qua đến đoạn ông người Tàu chết thì thấy có vũng máu to tướng, tôi hoảng quá chạy thẳng một mạch. Sớm hôm sau sốt cao, phải nghỉ bán quán mất mấy ngày đấy. Anh Thuận nghe đến đây thì dường như vẫn chưa được thỏa mãn, đoạn cố gắng đào sâu vào chi tiết của câu chuyện mà ông hàng nước kể, -Vậy có rõ nguyên cớ nào mà người đàn ông ấy lại gặp nạn hay không hả bác?Người bán quán lặng mình, ông ta tỏ vẻ trầm ngâm và bất định vào ngay trong chính ánh mắt của bản thân. Đoạn châm một bi thuốc lào, ông ta rít bằng hơi thật sâu, tiếng ông điếu ngân dài như muốn kéo con người ta vào cái thế giới huyễn hoặc, vô hình. -Về cái nguyên do thì thật sự là tôi không dám chắc, đại khái thì hôm đấy có gần chục người lũ lượt kéo nhau tới đây, họ lập đàn lễ cúng bái linh đình cả đêm. Tôi vì ham cái thú náo nhiệt và cũng là do hiếu kỳ nên đành ở lại để phục vụ chè nước cho đoàn người ấy đến sáng. Ngồi xem lâu mà chẳng hiểu gì, tôi tóm một cậu thanh niên vào để hỏi chuyện cho rõ. Cậu này nói rằng đoàn của công ty cậu ta theo chân một vị đồng thầy đi cầu danh ở đền Bảo Lộc, ngang đến đây thì vị đồng thầy nhất quyết đòi xuống làm lễ. Nghe đâu, đồng thầy này nói rằng có một nhà địa lý người Hoa chết ở đó. Ông này vì muốn phá các huyệt kết long mạch của Trần triều, nên khi vừa đặt chân vào đất vương, bản thân lập tức gặp tai họa. Vong hồn của ông ta nặng nghiệp, cứ vất vưởng ở đây chứ không thể trở về được cố quốc. Thỉnh lên hỏi chuyện thì ông ta khai rằng, chốn Bạch Hạc xưa kia vốn dĩ bị nhà Nguyên bày trò trấn yểm, ngày nay thiên tượng đổi khác, linh khí triều về vùng ấy, long mạch như thể được hàn gắn, bản thân ông ta đã thu thập âm binh, đem về Bạch Hạc, bày trận vạn vong để ngăn cản linh khí phát vượng. Ba năm sau, khi quay trở lại đây, ông ta đã cùng hai người bạn tìm ra thêm được một huyệt cát ở vùng Nam Định, thế là họ bàn nhau sẽ dùng máu người để phá huyệt. Ai ngờ, cách đây ít hôm, khi ba người đó chuẩn bị hành sự thì bất ngờ gặp phải đại nạn, một người chết, hai người còn lại thì lâp tức bỏ về nước. Giờ hồn phách của ông ta lưu lạc đất Nam, muốn về được cố quốc thì phải trông chờ vào cái gọi là tam niên xuất thế.Mấy người chúng tôi nghe đến đây thì sửng sốt, ai nấy cũng tỏ rõ là sự bất ngờ trước lời nói của ông lão. Bắt được điều này, người bán quán không để chúng tôi phải đợi thêm, ông ta tiếp, -Ấy đừng bất ngờ, câu chuyện vẫn còn tiếp nữa. Tam niên xuất thế chính là ba người đã được nhà Trần chấm lính bắt đồng. Tôi cũng không được biết rõ về danh tính của họ. Nhưng nghe đâu, lão người Tàu kia đã tìm ra tất thẩy cả ba người này, hắn còn dắc tâm đánh bùa, yểm ngải để làm hại, không cho tam niên hoàn thành được chọn vẹn cái nghiệp quả, nhân duyên của họ với nhà Trần. Thầy Hữu gấp gáp, -Vậy bác có biết tên họ của người đàn ông đã chết ấy không? Người bán quán suy nghĩ một hồi, đoạn nói, -Tôi nghe nói là người Bắc Kinh, họ Cao, tên Thổ.Chúng tôi cảm tạ thịnh tình của người hàng nước rồi cáo biệt. Trở lại bên cạnh chiếc xe, thầy Hữu cắm hai que nhang lên đầu xe, đoạn hướng mặt về phía bờ sông mà nói, -Bấy lâu nay hóa ra người ngáng đường chúng tôi là ông, thật đáng đời cho kẻ coi thường hạo khí Nam Việt. Chúng tôi lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy trí nhân để thay cường bạo, nếu như ông thật sự đã hối cải, tôi sẽ xin thỉnh ý Trần gia mà giúp cho ông được trở về cố quốc. Bằng không, Trần triều linh thiêng, chỉ sợ hồn phách của ông sẽ mãi mãi vất vưởng, ngàn kiếp không được siêu sinh. Nói rồi thầy Hữu liền ra dấu cho bác tài lên xe, tiếng máy con bảy chỗ nổ giòn tan. Chúng tôi lập tức lên đường về đền Bảo Lộc, bác tài vì điều này mà trong lòng kinh hãi, thầy Hữu liền trấn an, -Cậu không phải lo lắng, chẳng qua là nhân duyên, vong hồn này cố tình chặn xe chúng ta lại để nhờ người hàng nước gửi gắm câu chuyện. Đến thời điểm này, mọi thứ phần nào cũng đã rõ, chỉ còn lại trận chiến trên Bạch Hạc, hy vọng mọi thứ xuôi lọt. Còn cậu, cậu cứ lái xe cho tốt, tất thẩy chẳng có gì là liên quan tới cậu, chớ có lo, chỉ có phong bì của tôi là đang đợi cậu sau chuyến này thôi.Câu nói đùa của thầy Hữu làm bác tài phì cười. Thì ra, bấy lâu nay, từ những chuyện kì dị trong nhà tôi, cho đến việc yểm ngải hại mẹ con anh Thuận, tất cả đều do một tay Cao Thổ gây nên. Dẫu giờ, ông ta đã không còn ở trên dương thế, nhưng hậu quả về âm phần thì vẫn đang hiển hiện. Thoạt nhiên, qua lăng kính chiếu hậu, tôi thấy mờ nhạt có người đàn ông ăn mặc lịch thiệp, mắt hướng theo chiếc xe mà khuỵ gối quỳ lạy..Bấy giờ, trời đã về chiều, mây đen hùng đồ kéo đến che lấp đi ánh nhật nguyệt. Cảnh vật bốn bề trước mắt trở nên thật tiêu điều, ảm đạm. Thầy Hữu vội vã châm điếu du lịch, khói thuốc mờ nhạt lững lờ trong cơn mưa trông thực thi vị. Chúng tôi đứng nép về một bên trước cổng chào tam quan của đền Bảo Lộc, thầy Hữu đánh điện gọi cho Tử Thanh, khuôn mặt hết sức hồi hộp, lo lắng. Lần một, lần hai, Tử Thanh đều không bắt máy, thầy Hữu thấy vậy thì lại càng sốt sắng hơn, đoạn lập tức ra hiệu cho chúng tôi đi vào sâu trong đền. Theo như thầy Hữu nói, đất này vốn dĩ là nơi phát tích của nhà Trần, việc đặt đền Bảo Lộc trên nền cũ có lẽ không chỉ đơn thuần với mục đích cúng bái. Nếu như xét theo hướng đi của dòng Châu Giang, kể từ đoạn huyện Mỹ Lộc ra đến cửa Hữu Bị, chắc chắn sẽ có những điểm long mạch tích tụ, thế đất trở nên vượng phát. Bởi lẽ, xét theo phong thuỷ, nước là nguồn dẫn của long mạch, nước tụ ở đâu, huyệt kết sẽ nằm ở đó, tuỳ theo sự to nhỏ khác nhau mà người ta sẽ định đoạt về ý nghĩa và lợi ích của huyệt. Phàm là các điểm giao nhau của những con sông, dòng chảy sẽ rất khó đoán. Trên mặt nổi, ta thường chỉ thấy nước chảy theo một đường thẳng, nhưng dưới lòng đất, con nước hoàn toàn có thể rẽ ngang, xiên trái, đâm phải, tuy chỉ kéo dài độ vài trăm mét, nhưng những điểm có sự thay đổi như vậy, tất cả đều mang lại một nguồn linh khí rất lớn. Việc xây nhà, đặt mộ, nếu có thể làm được các trên nền đất có huyệt nước ngầm chảy qua, công danh tiền tài ắt sẽ hoạch phát đến khôn cùng. Đền Bảo Lộc cũng dựa trên thuyết phong thuỷ ấy mà sắp đặt vị trí. Tuy rằng đền thờ ngày nay đã bị di dời vào phía bên trong, cách đền cũ chừng ba trăm mét, nhưng có lẽ, địa điểm hiện tại cũng đã có sự tính toán, kiểm tra kĩ lưỡng của những người biết về địa lý, phong thuỷ, thuộc dòng dõi nhà Trần. Chúng tôi vào đến sân chính của đền thờ, nơi này quả thật rộng lớn, trước mặt là đền chính thờ chủ Hưng Đạo Đại Vương, bên trái có chùa thờ Phật, bên phải là phủ thờ Mẫu, tất thẩy đều được quây tụ lại thành một quần thể văn hoá tâm linh đồ sộ. Chúng tôi tiến gần chính điện thì bất ngờ thấy có sự lạ, tiếng người nữ nhân kêu gào vọng lại thực thảm thiết, nhân mạng đứng xem la liệt chật cứng mấy bên cửa. Phải khó lắm chúng tôi mới chen vào được bên trong. Bấy giờ, anh Thuận chẳng nói chẳng rằng, toàn thân bất động, ánh mắt kinh hãi nhìn thẳng về phía trước. Xem bộ dạng của anh ta thì sự việc lúc này ắt hẳn là rất quái dị. Đánh mắt theo anh Thuận, tôi bất ngờ cả kinh khi thấy ngay trên chiếu hầu, dưới ban thờ lớn đặt bài vị gỗ sơn thếp vàng. Một người đàn bà đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, cánh tay nổi lên chằng chịt là những vết cào xé. Kì lạ hơn, nữ nhân này cứ lăn qua lăn lại trước ban thờ, có lúc lại quỳ đầu dập lậy, lúc thì lại lấy tay đấm thùm thụp vào thân thể. Bất giác, anh Thuận hô hoán sang phía thầy Hữu, -Thầy Hữu, là mẹ cháu, mẹ cháu đấy. Thầy Hữu ở kế bên hình như đã biết được điều này, đoạn đảo mắt xung quanh một vòng rồi từ từ tiến lại gần bên chiếu hầu. Mấy người ở đó thấy vậy thì định can ngăn, có người cho rằng đây là hiện tượng cơ hành, phàm là những người hợp căn hợp số với cửa thánh, khi đến đền phủ đa phần hành động đều trở nên kì quặc, khó hiểu. Phải là thầy cao tay lắm thì mới xin tha cho được, bằng không thì chỉ có nước dồ dại. Anh Thuận nghe được những lời đó thì lại càng lo lắng, anh ta toan lao vào đỡ mẹ dậy thì liền lúc có một bàn tay từ phía sau giữ chặt anh ta lại, không ai khác, đó chính là Tử Thanh. -Để thầy Hữu lo, cậu lao vào là hại mẹ cậu đấy thôi. Sự xuất hiện bất ngờ của Tử Thanh như đánh thức anh Thuận dậy giữa cơn bấn loạn. Ba người chúng tôi bấy giờ tập trung cao độ vào những hành động của thầy Hữu trên chiếu hầu. Thoạt, gió trời nổi lên như bạo vũ, đèn điện trong đền chập choạng, khoảnh khắc giao nhau giữa canh sáng và canh tối cũng đủ làm con người ta thất kinh. Lúc ấy, chỉ còn lại duy nhất là thứ ánh sáng bập bùng từ mấy ngọn đèn dầu, nhà đền chìm vào quang cảnh thật khác thường. Dưới nền màu vàng vọt xưa cũ, những vật phẩm được bày biện trong gian phòng như đương sống dậy. Từ những đường nét trạm trổ rồng phượng trên các cột gõ, cho đến những tấm bảng sắc phong linh thần đồ sộ, tất thẩy đều đang được hiện hữu một cách rõ rệt, quả là đượm hồn và thi vị. Đoạn, trong cơn mù mịt của cuồng phong, có tiếng người dội lại từ trên cao, âm sắc lọt qua mấy cánh cửa mà đổ dồn vào trong chính điện. -Đất vương thần sinh khí vẫn còn đây, cửa thần tử há để quỷ xâm phạm. Nay nhân nghĩa ta xét còn duyên nghiệp, kiếp phù sinh lấy công trạng chuộc thân. Giọng nói vang vọng trong không gian nghe thực kiêu hùng. Chỉ trong giây lát, mây đen đã tan đi, gió lớn đã ngừng thổi, đèn điện xung quanh lại trang hoàng lên nhà đền một màu sắc tươi mới, diễm lệ. Bấy giờ, chúng tôi mới thấy rõ được hình ảnh của cô Trà, người đàn bà chất phát vô tình bị cuốn vào vòng xoáy của tâm linh. Thật thương tâm cho cảnh thân tàn, ma dại. Về phần thầy Hữu, người ta hoàn toàn có thể bắt gặp được là những hành động kì quặc, khó hiểu. Một tay thầy cầm chặt tấm vải ngũ sắc dài chừng nửa mét, một tay lại cầm que nhang còn đương cháy dở. Đoạn thầy Hữu dung đầu nhang chấm hai chấm nhỏ ở đuôi của tấm vải. Kế đó, thầy Hữu dùng tấm vải cuốn chặt quanh bụng của cô Trà. Chỉ trong chớp mắt, cô Trà lập tức đứng dậy như người bình thường, có điều, cặp mắt của cô thì lại vô hồn, bất định, rất khó để diễn tả. Thầy Hữu bấy giờ vội vàng thỉnh một ngọn đèn dầu ở trên chính ban xuống. Ngay khi ngọn lửa trong bầu thủy tinh cháy lên đến giữ dội, thầy Hữu lập tức di chuyển ra phía bên ngoài, hướng thẳng về cổng chào tam quan của Bảo Lộc. Bất giác, cô Trà cũng theo chân của thầy Hữu mà đi ra ngoài, chúng tôi thấy sự lạ như vậy thì cũng khó lòng mà đứng yên cho được. Khi vừa ra đến cổng tam quan, bầu thủy tinh trên ngọn đèn dầu bất ngờ vỡ toang, cô Trà sau đó thì ngã gục xuống. Thầy Hữu lúc này nhanh nhẹn bắt quyết, lấy hai lòng bàn tay của mình chụm lại rồi đánh mạnh vào lưng cô Trà, đoạn hô, -Nhập xác Người cô Trà lập tức rung lên bần bật, ánh mắt chằng chịt là những tia đỏ trông rất kinh dị. Anh Thuận đứng kế bên vì không kìm được lòng nên đành quỳ xuống van xin để thầy Hữu cứu mẹ. Chàng thanh niên can trường, sắt đá, bản thân đã trải qua muôn vàn những phong trần, khó khăn, nay vì tình mẫu tử mà hai dòng lệ lại trực trào, quả thật khiến cho con người phải cảm động. -Đỡ mẹ cậu dậy, phía trước có một quán trọ, ta đã thuê sẵn phòng, thằng Đoan cũng đang ở đó. Tử Thanh nói rồi liền quay sang bên phía thầy Hữu, hai người này cùng anh Thuận dìu cô Trà đi vào quán trọ cách đền tam quan chỉ hơn chục mét. Ngồi trong gian phòng chật hẹp, anh Đoan và cô Trà đang nằm li bì trên một chiếc giường gỗ đã có phần mục rũa, bốn người chúng tôi quây quần trên manh chiếu cói, thầy Hữu liên tục đốt thuốc để trấn tĩnh lại tinh thần. Anh Thuận lúc bấy giờ mới mở lời, -Vậy mẹ cháu và thằng Đoan bây giờ nên tính thế nào hả thầy? Thầy Hữu trầm ngâm một hồi, ánh mắt nhìn ra bên ngoài hiên cửa mà thực não nề, -Như về thằng Đoan thì chúng ta đã có thể tạm thời yên tâm, hiện tại cơ thể của nó sẽ dần dần bình phục sau lần phá ngải trước. Còn về cái Trà, điều này ta vẫn còn đang băn khoăn, mọi chuyện xảy ra hôm nay thực bất ngờ quá. Tử Thanh, cậu nói rõ sự tình xem sao? Tử Thanh nghe thế thì liền đáp, -Sở dĩ khi mới đến đây, cô Trà và thằng Đoan đều đương có sự tỉnh táo về mặt thần thức. Cô Trà vì nghe được sự linh ứng của Trần triều trong việc trừ tà sát quỷ nên một mực đòi vào bên trong để yết bái linh thần. Tôi ban đầu cũng có can ngăn, nhưng bản thân thực chất lại muốn đánh liều một phen xem sao, biết đâu có thể cứu giúp được cô Trà sớm hơn. Ấy vậy mà ai ngờ, khi chúng tôi bắt đầu đặt chân vào chính điện, cô Trà lại nói rằng cảm thấy hai bên bả vai bị đè nặng, biết có sự lạ, tôi bèn để cô Trà tùy nghi hành sự một mình dưới đền Bảo Lộc. Mặt khác, tôi ngược ra phía ngoài để tìm đường lên đền Khải Thánh, xin quẻ nhờ Vương thánh chỉ điểm. Lúc mọi việc xong xuôi, tôi trở lại dưới này thì vừa hay bắt gặp mấy người và sự kiện kì dị của cô Trà. Thầy Hữu nghe Tử Thanh nói đến đây thì liền cắt lời. Giường như trong việc này cũng có một phần sơ xuất của Tử Thanh nên cô Trà mới phải lâm vào cảnh hoạn nạn. -Việc để cái Trà đi vào đền Bảo Lộc đã là một sự nguy hiểm mà ngay cả bản thân ta cũng không thể lường trước được. Lần này xảy ra sự việc như trên nguyên do ắt hẳn nằm ở sự hỗn loạn âm dương trong người của cái Trà, âm thịnh, dương suy, hồn phách của vong ngải đã đạt vượt ngưỡng dòng dương khí đương chảy trong con người. Chính vì thế, khi bước vào đền phủ, thánh nhân lập tức trục vong trục quỷ ra khỏi tiền đường. Nhưng ngặt nỗi, vì vong quỷ này và bản thân của cái Trà được tồn tại song hành với nhau, âm dương có sự bổ trợ để cân bằng giữa hai phía. Nếu như liền lúc trục xuất vong quỷ ra ngoài, sự mất cân bằng về âm trong người cái Trà sẽ gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, thậm chí là tánh mạng. Nên suy cho cùng, câu nói "kiếp phù sinh lấy công trạng chuộc thân", ắt hẳn muốn ám chỉ đến việc phá hận ngải. Đối với quỷ thần, nhân sinh luôn được đong đếm, cân nhắc giữa hai chữ cho và nhận. Muốn được cửa thần phù cứu giúp, bản thân ta phải đánh đổi bằng một công trạng hoặc một thành tích nhất định. Có công thì mới có thưởng, ấy được gọi sự là công bằng, không ai hơn ai, không ai nợ ai, tất thẩy đều được quy về cán cân của nhân sinh, duyên nghiệp. Tử Thanh, cậu thử nói xem ban nãy bốc quẻ nên luận giải như nào?-Quẻ này muốn chúng ta hầu bóng. Thầy Hữu giường như không mấy bất ngờ trước sự việc này. Đoạn hỏi kĩ,-Hầu bóng sao, ta cũng đã đoán biết được điều đó, chỉ là không rõ được chi tiết tường tận, cậu thử cứ nói tiếp xem. Tử Thanh bấm độn, cậu ta đưa ánh mắt nhìn ra phía bên ngoài như thể đang đắn đo lắm,-Giá hầu lần này phải được thực hiện vào đầu giờ sửu, chỉ hầu duy nhất một người, không cần đàn lễ trang nghiêm, cầu kì. Thầy Hữu sốt sắng, -Ý cậu muốn nhắc đến là vị nào? Lời nói có phần gấp gáp của thầy Hữu khiến cho Tử Thanh chột dạ, giường như cậu ta đương muốn chấn tĩnh lại chính bản thân mình. -Giá Trần triều, Đệ Nhị Vương Cô. Bầu không khí lúc bấy giờ trở nên nặng nề, mấy người chúng tôi nhìn nhau, ai nấy cũng giữ cho mình một trạng thái của sự lo lắng, bất an. Thầy Hữu, một người thông hiểu học thuật, nhưng khi nghe qua lời nói của Tử Thanh thì lại có phần do dự, cân nhắc, ắt hẳn trong cuộc trò chuyện này có ẩn chứa nội tình. Đoạn thầy Hữu châm vội lấy điếu thuốc, giường như cái thứ á phiện bình dân này biết cách để làm cho suy nghĩ của con người ta được chậm lại. Thầy Hữu nói, -Vương Cô Đệ Nhị là một giá hầu rất khó, bản thân ta cũng chưa từng thực hiện qua bao giờ. Hơn nữa, lúc này để tìm được hai người hầu dâng, được cung văn, được khăn chầu, áo ngự thì đúng là khó quá. Tình hình lúc này ngày một bế tắc, tuy rằng đã có đường đi nước bước tiếp theo, nhưng chúng tôi vẫn rất khó để tìm ra được một đối sách có thể cân bằng giữa mọi chuyện. Nhưng cổ nhân vốn có câu, tuỳ cơ ứng biến, thầy Hữu lúc này cho rằng sự việc đã đến lúc cấp bách, dù khó khăn, thiếu thốn thì cũng vẫn phải làm. -Trong đạo Mẫu, người ta thường vẫn hay truyền miệng, sạch sành sanh thì mới được manh áo đỏ, chưa kể đến rằng phật thánh chứng tâm chứ không hề chứng lễ. Lần này đành nhờ Tử Thanh đứng lễ hầu giá Vương Cô Đệ Nhị, ta sẽ làm người dâng đối. Đàn mãn chắc có lẽ chắc không cần thịnh soạn, chỉ cần hợp tình hợp lý với giá hầu Vương Cô là được. Khăn chầu áo ngự ta nghĩ không khó, thành Nam là đất Vương thần, đền to phủ lớn lại nhiều, việc mua bán đồ đạc phục vụ nghi thức hầu bóng vốn chẳng thiếu thốn. Chúng tôi triển khai công việc theo dự định của thầy Hữu, cũng phải đến gần khuya thì Tử Thanh và bác tài mới đi mượn được bộ khăn chầu áo ngự giá Vương Cô về. May thay, người thủ nhang của đền Bảo Lộc khi ấy lại có sự quen biết với bác tài, người này tình nguyện giúp đỡ chúng tôi về việc trải chiếu hầu đêm ngay trên sân chính tước cửa đền. Chưa hết, người đàn ông này còn ngỏ ý muốn được tham gia vấn hầu, vì sự hiếu kỳ của ông ta đối với cách làm mà chúng tôi đã nói, nên bản thân đã quyết định rủ thêm một người bạn già đến để hỗ trợ. Một người gõ phách, hát văn, một người chơi sáo trúc và đàn nhị. Tất thẩy như vậy đã là tương đối so với ý nguyện ban đầu của thầy Hữu.Đêm ấy, cuối giờ tý, trăng lên cao chót vót tận đỉnh đầu, cảnh sắc trước nhà đền vô tình trở nên lung linh, huyền ảo. Những đường nét trạm trở rồng phượng trong quần thể kiến trúc Bảo Lộc như được cách điệu, sống động bởi thứ ánh sáng nguyệt quang thật đượm hồn. Tiếng gió nhè nhẹ quây quần lại bên cạnh chỗ chúng tôi, nó khiến cho thần thức của con người được sảng khoái, được minh mẫn hơn bao giờ hết. Thầy Hữu bấy giờ đương mải bầy biện, bố trí những đồ vàng mã ra xung quanh, nhìn đàn lễ đơn điệu chỉ có mâm xôi gà, vài cái hình nhân, lác đác là những mâm tiền vàng chồng chéo thực khiến cho con người ta phải cảm thấy chạnh lòng. Ít có vấn hầu nào ở thuở này mà lại thiếu thốn đến trăm đường như vậy. Thầy Hữu cẩn trọng đếm từng hình nhân giấy một, đoạn gọi Tử Thanh lại, hai người này tranh luận một hồi, cũng không nghe rõ rằng nói gì, chỉ thấy khuôn mặt của thầy Hữu rất buồn bã. Hình như, Tử Thanh lúc đó có nhắc đến vấn đề tên tuổi, -Thôi thì đã là ý trời, thầy cứ ghi tên tuổi của ta vào đấy, hậu quả ra sao ta sẽ tự mình gánh chịu. Bản thân ta cùng mọi người đi được tới đây cũng đã là một sự thành công vượt ngoài vận số rồi. Thầy Hữu vẻ mặt buồn bã, giường như cuộc tranh luận với Tử Thanh có điều gì đó không ổn. Hai người này quay trở lại chiếu hầu, thầy Hữu cố ý sắp đặt một ban thờ nho nhỏ với đầy đủ hương hoa, đèn nhang, chính giữa là một tấm bài vị bằng gỗ có ghi mực tàu, màu sắc vẫn còn rất tươi mới. Tử Thanh ngồi xuống chính giữa chiếu, cậu ta bấy giờ đã khoác lên mình một bộ quần áo mà thầy Hữu gọi là phù hợp với giá hầu của Vương Cô Đệ Nhị. Thứ trang phục này lấy tông màu chủ đạo là sắc vàng tươi, chính giữa có thêu hình phượng rất cầu kì, chân áo còn điểm thêm vài nét của thứ hương sắc mây trời trông thực bắt mắt. Đoạn thầy Hữu cẩn thận đội chiếc khăn xếp có điểm châm ngọc lên đầu của Tử Thanh. Đúng lúc này, hai người ở bên ngoài bắt đầu gõ phách, thổi sáo, tiếng hát văn trầm bổng bay vào không gian đêm trường như mang lại cho con người ta một trạng thái vô cùng lạ kì, thứ cảm giác có lẽ chỉ tồn tại trong những hình ảnh mang tính hoài cổ. -Trên toà vàng công ơn tiên thánh, dưới điện tiền phụng thỉnh Vương Cô. Tối linh thiên hạ được nhờ, dấu thiêng ghi để phụng thờ khói hương. Cung văn dâng ý đến đây thì Tử Thanh tay cầm hai que nhang, cậu ta vái ba vái trước ban thờ, đoạn vái sang bên trái một lần, bên phải một lần, hành động xem ra thực rất đẹp mắt. Thế rồi, cậu ta đứng lên, toàn thân lùi lại phía sau hai bước. Tại đây, cậu ta xoè thẳng bàn tay của mình mà đưa lên cao. Ngay sau đó, Tử Thanh tiến về phía trước ba bước, cậu ta quỳ gối lậy trước bài vị gỗ một hồi. Thầy Hữu thấy thế thì liền châm một bó nhang lớn, đưa vào tay của Tử Thanh, hành động rất cung kính không hề giống như cách ứng xử với một người nhỏ tuổi. Tử Thanh một tay nhận lấy bó nhang từ phía thầy Hữu, một tay thì lại chắp lấy hai ngón mà điểm nét xung quanh bó nhang, hành động tựa hồ như đang viết chữ. Việc xong, cậu ta lùi lại mấy bước, tay cầm bó nhang đương cháy phập phùng mà đưa vào không trung. Thỉnh thoảng, cậu ta hô lên mấy tiếng nghe thực oai hùng.-Bạch Đằng nổi trận giao phong, quân thù bỏ xác giữa dòng trường giang. Bá Linh quỳ gối quy hàng, Vương Cô dẹp hết Phạm Nhan đẳng tà. Cung văn tấu nhạc ngày một thêm dồn dập, Tử Thanh lúc này trên tay đương cầm một kì lệnh ngũ sắc, một thanh kiếm bản dài, bóng loáng. Cậu ta đưa kiếm lên ngang ngực, tung cờ về phía sau, toàn thân uyển chuyển trong từng hành động, điệu bộ hệt như một vị dũng tướng đương xông trận. Lát sau, Tử Thanh trao lại khí giới và kì lệnh cho thầy Hữu, cậu ta ngồi xuống trước ban thờ, khuôn mặt có đến vài phần cương nghị. Giữa lúc cảnh khuya đang son sắc, thầy Hữu rót liền ba chén rượu lớn, đoạn đặt vào lòng bàn tay mà đưa sang phía Tử Thanh. Miệng nói, -Con tấu lậy cô muôn trùng bách bái, nhất tâm con nhất tưởng, nhất dạ lại nhất cầu, ghế cô thanh đồng một long một dạ, chí nguyện tâm thành, hôm nay được bắc ghế cô ngồi bắc ngôi cô ngự, cô nhận đồng thương đồng nhận lính thương lính, cô lệch kê méo nắn, ấm cửa lửa sang để ghế cô được hai chữ vuông tròn, cầu được như ý nguyện được tòng tâm đầu năm chí giữa nửa năm về cuối chín tháng đông ba tháng ngà. Thanh đồng học pháp nên pháp học thuật thông thuật, bốn mùa xuân hạ thu đông hầu vai các thánh. Cô ban danh ban diện cho ghế của cô, cho huynh đệ tứ phương trăm họ về khâm trực cửa cô được đắc lễ đắc bái, đắc lộc đắc tài, chu viên hoàn hảo mười phân vẹn mười. Lậy cô. Tử Thanh bấy giờ nhấp một chung rượu, miệng cười tựa như xuân sắc của muôn hoa, -Ta Trần Triều, Đệ Nhị Vương Cô, Đại Hoàng công chúa chính cung. Vậy là nay đã đủ được tam niên xuất thế rồi nhỉ. Ta có lời ban khen cho thanh đồng của ta nhất tâm tưởng, vạn tâm cầu, trên thì nhớ tới hồng ân trời biển của chư vị phật thánh chúa tiên, của cửa đình thần tam tứ phủ cha con cô. Dưới lại tỏ lòng trung nghĩa một dạ một mực vì đạo vì đời. Nay lại không quản đường xá xa xôi, nhất tâm về yết bái dưới bản đền Bảo Lộc nơi chốn tổ của Trần Triều thần vương. Chưa kể còn thiết lập được đàn tràng trên chay dưới mặn kính trình cửa thiên địa đất trời, phát tấu biểu quan kính tiến ngũ phương sứ giả. Quà lễ ngày hôm nay sẽ được đưa về cửa lục bộ thượng từ Trần Triều của cha con cô. Ta chứng minh công đức cho pháp sự pháp sư, tờ vàng cánh sớ minh bạch rạch ròi văn hay chữ tốt chí nguyện tâm thành. Nay ta giáng đàn giáng lễ nhập bóng gia phong. Ta cho thần khí được vào tay, lại cho thao thao chư vị binh hùng của ta đi theo đến cửa tam giang Bạch Hạch mà phá trận quỷ vong, để thơm danh nức tiếng muôn đời tam niên xuất thế.Thầy Hữ vẻ mặt hồ hởi, đoạn vái lạy ba vái. Thầy tâu, -Cô ở trên cô soi rõ tỏ tường, nay nhân mạng tổn vong, nữ nhân thất thế, người quỷ bất phân. Lại có thần kiếm bảo vương trừ tà sát quỷ thỉnh cô ngự giá phá giải hận vong, cứu lấy nhân mạng. Tử Thanh cười lớn một tiếng, hai tay vỗ xuống đất nghe thực mạnh bạo, -Xưa nay Trần Triều oai linh một cõi, kẻ tốt luận công kẻ gian luận tội, minh minh bạc bạch như vậy sao có thể ưu ái được cho bất kì một ai. Nay ta đảm bảo tánh mạng cho nữ nhân kia, cho vong hận vong được yên ổn, chỉ cần tam niên xuất thế nhất tâm nhất dạ phá trận bạch đại công cáo thành, ta tự khắc báo cho cách mà hoá giải bùa yểm. Ta hạ lệch cấp thiết cho tất thẩy nhân mạng mau mau cùng âm tướng Trần Triều đi về Bạch Hạc để đẩy lùi gian nguy, trả lại linh khí vạn năm cho đất Nam Việt.Tử Thanh bấy giờ toàn thân như nhẹ bẫng, anh ta nhắm nghiền hai mắt, toàn thân hơi ngả ra phía sau mà xoay đảo liên hồi. Thầy Hữu thấy thế thì liền ra hiệu cho chúng tôi váy lậy. Cung văn bên ngoài tấu lên khúc nhạc nghe thật vui tai, -Trần Triều Kiếp Bạc linh từ, Thiên Trường Mỹ Lộc phụng thờ khói hương. Chí Linh ghi lại dấu thiêng, sử xanh còn để lưu truyền đời sau. Bắc Nam đôi xứ đảo cầu, Vương Cô bảo hộ bền lâu muôn đời. Thầy Hữu bấy giờ tận tình trút bỏ khăn trầu áo ngự trên người của Tử Thanh xuống, đoạn gấp lại một cách cẩn trọng rồi đưa cho anh Thuận ở phía sau. Tử Thanh lúc này dường như đã trở về đúng với trạng thái ban đầu, cậu ta liền quay sang thầy Hữu, sắc mặt tươi tắn đến lạ thường.- Đây là lần đầu tiên trong đời ta thực hiện một giá hầu, quả thật đúng như những gì mà các đồng thầy vẫn thường hay đồn thổi. Việc trắc giáng dương đồng của tiên thánh không chỉ đơn thuần là một nghi thức tâm linh, nó còn đem đến một nguồn lợi vô cùng mãnh liệt về thần trí.Thầy Hữu một tay thu dọn đồ đạc, một tay phì phèo điếu du lịch trông thực phong trần. Đoạn nói:- Phàm là những ông đồng, bà cốt, khi thực hiện công việc tâm linh có liên quan tới âm phần, bản thân của họ rất cần được bổ sung dương khí, cân bằng sự thịnh suy của âm dương trong cơ thể. Thông qua nghi thức hầu bóng, khi đồng thầy tiếp nhận sự trắc giáng dương đồng của tiên thánh, bản thân sẽ được ban tặng một luồng sinh khí phù hợp qua từng giá hầu. Từ đó, con người của họ dần dần trở nên mạnh mẽ, khoẻ khoắn hơn so với thường nhật. Nhưng điều này không phải bất cứ ai cũng được lãnh hội một cách trọn vẹn. Xem ra thì cậu quả thực là có căn duyên với cửa đình thần Tam Tứ Phủ.Thầy Hữu nói đến đây thì mấy người chúng tôi bất ngờ chột dạ. Từ đằng xa, tiếng chuông điểm canh của nhà đền dội về lanh lảnh tựa hồ như muốn đập tan sự trầm luân trong cõi không gian vô định. Bất giác, người thủ nhang vội kéo tay thầy Hữu, hai người này đi thẳng vào trong gian hậu của đền Bảo Lộc. Độ khoảng mươi phút, thầy Hữu trở ra, khuôn mặt lấy làm hồ hởi lắm. Ánh mắt của thầy tập trung cao độ vào một hộp gỗ vuông, bản nhỏ, bên ngoài có tạc hình lưỡng long chầu nguyệt thực rất kì lạ. Đoạn chúng tôi vội vã dọn dẹp đồ đạc, tác phong ai nấy cũng đều nhanh nhẹn, duy chỉ có Tử Thanh, cậu ta tách biệt hoàn toàn so với mấy người chúng tôi, toàn thân bất động mà đưa mắt nhìn thẳng vào đền Bảo Lộc. Dường như, con người này đang muốn nhìn thấu tận trời đất, thỉ như cuộc đời của cậu ta vậy, dù cho có sự học hiểu tinh thông âm dương đến mấy, bản thân cũng khó lòng mà thay đổi được vận số. - Chuyến này Bạch Hạc đại phá vạn vong, sợ rằng lành ít dữ nhiều, mẹ con cái Trà sức khoẻ còn yếu, đành phiền bác tài ở lại săn sóc cho vài hôm. Chúng ta về quán trọ chuẩn bị đồ đạc, nhất định phải đến được Bạch Hạc trước giờ mão. Chúng tôi vội vàng từ biệt thủ nhang đền Bảo Lộc, người này đưa mắt nhìn theo Tử Thanh, nhãn lực toát lên một vẻ âu sầu đến cùng cực. Trở lại quán trọ, tôi cùng thầy Hữu thu dọn vài bộ quần áo, anh Thuận chỉ kịp ghé vào tai em mình mấy lời thủ thỉ đậm tình ân nghĩa ruột thịt. Tử Thanh ở phía ngoài gọi lớn, cậu ta nãy giờ hoàn toàn không hề để ý đến những gì mà chúng tôi đang làm, bản thân dường như muốn đắm mình trong những suy nghĩ mang tính biệt lập. - Xe đến rồi, đi thôi kẻo muộn. Mấy người chúng tôi lên xe, tạm thời từ biệt vùng đất Nam Định để xuôi dòng đến Bạch Hạc. Mỗi người lúc này đều ngả tâm trạng mình về một phía không gian riêng biệt, duy chỉ có tôi, giữa màu sắc của đêm đen dặm trường, tôi tự hỏi lòng mình về hai chữ nhân duyên. Cớ sao trong cuộc sống này luôn tồn tại những thứ được coi là thiên định, được gọi là bất khả kháng. Cớ sao con người lại luôn phải tự buộc mình vào những câu chuyện mà chính họ cũng không thể đoán biết được sự hư thực, thành bại. Phía trước, con đường ngày một dài thêm, hai bên chỉ thấy là những màu đen trập trùng, bất tận. Thầy Hữu bất ngờ đánh điện cho một người thân quen trên đất Việt Trì:- Số máy của cậu Hà đúng không? Là tôi, Hữu đây, lần này tôi có chuyến đi đến Bạch Hạc, cậu chuẩn bị giúp tôi ba cỗ quan tài cho người trưởng thành, chút đàn mã cùng với nhang đèn, tôi sẽ nhắn tin chi tiết cho cậu ngay đây. Mong cậu nhớ chuyện năm xưa mà ra tay giúp sức cho tôi được toại lòng. Đầu dây bên kia có tiếng nam nhân trung tuổi, nghe qua âm lực thì phần nào có thể đoán biết được sự dũng mãnh và khí chất của người này:- Thầy yên trí, chỉ cần thầy nói là tôi sẽ chuẩn bị đầy đủ, ơn cứu mạng của thầy tôi khó lòng mà quên được. Hẹn gặp lại thầy trên đất Bạch Hạc.Thầy Hữu dập máy, tâm trạng dường như đang có phần ngổn ngang lắm, khuôn mặt thầy sạm lại là những đường nét của sự nhọc nhằn. Nhưng kì lạ, tại sao thầy Hữu lại muốn nhờ mua ba cỗ quan tài, điều này thực khiến cho con người ta phải bận lòng suy nghĩ. Quay sang Tử Thanh, vẫn là những nét u buồn trầu trực trên khuôn mặt của người thanh niên đã sương gió mấy phen với cuộc đời. Anh ta nhoài mình trên chiếc ghế phụ, ngả đầu vào những nỗi cô đơn chẳng ai thấu. Bất giác, tôi thấy đôi mắt của Tử Thanh ngấn lệ, anh ta vội vã đưa tay lên che đi sự dâng trào của xúc cảm, miệng lẩm bẩm vài câu nghe thực xót xa,- Tu trọn một kiếp nhân sinh, tốt đời đẹp đạo ân tình còn vương. Cứu sinh giải độ luôn thường, vậy mà nghiệp quả tang thương muôn phần.Câu chữ của Tử Thanh cùng những nỗi buồn không tên cứ thế cuốn lấy tôi trên con đường tới Bạch Hạch. Chỉ trong thoáng chốc, khi sự âu sầu vẫn còn đọng trên đôi mắt của kẻ trượng phu, mặt trời đã len lói sau những vùng mây hắc ám hỗn độn. Cả một khoảng không phía sau lúc này tựa hồ như bức tranh xích hoả vô cùng lẫm liệt. Chúng tôi đặt chân đến cửa đền Tam Giang vào độ gần 6h sáng, cảnh vật xung quanh có phần ngược lại so với sự lên xuống bất định của lòng người. Nơi đây sơn thuỷ hữu tình, địa thế bốn bề vô cùng đặc sặc, nhà đền lại được sắp đặt theo thiết kế cột trụ, các gian giữa nhà vô cùng khoáng đãng. Nếu như đứng trên tầng lầu, hoàn toàn có thể thu về dưới tầm mắt là bức tranh tam thuỷ cuồn cuộn sóng nước. Đặc biệt, nơi đây còn tồn tại một sắc thái đền phủ vô cùng khác biệt so với những nơi thờ tự trên đất Nam Việt. Điều này thể hiện qua những bức tượng quân thần và lính gác lộ thiên được đặt hai bên bậc thềm dẫn từ gian khách của nhà đền xuống dưới mé nước dòng tam thuỷ. Những bức tượng này được điêu khắc và phối màu dựa trên nền tảng trang phục binh lính thời xưa. Thoạt nhìn sẽ tạo cho con người ta cảm giác như được bước vào một thế giới phong kiến đượm hồn, sống động. Hơn nữa, giữa vùng trời đất thênh thang rộng lớn, nơi hội tụ cảnh sắc thần thuỷ ảo kỳ, bức tượng Chiêu Văn Vương Tả Thánh Thái Sư đứng trước mũi thuyền, một tay cầm sách, một tay ghìm gươm, ánh mắt trông theo giang sơn Đại Việt bên ba dòng sông đỏ nặng phù sa thực khiến cho con người ta phải cảm thấy kiêu hùng trước sự oai linh của bậc tiên tổ.- Thầy Hữu, tôi đây.Tiếng gọi thất thanh của nam nhân đương trên chiếc thuyền độc mộc ở mé bên sông chợt làm cho mấy người chúng tôi giật mình. Theo sau anh ta còn có hai con đò nhỏ, một con thuyền lớn. Thầy Hữu bắt gặp người này thì hồ hởi, liền vẫy tay ra dấu cho anh ta đi thuyền gần lại. Bấy giờ, tôi mới có dịp nhìn rõ nhân diện của người này, trông qua thì chỉ đoán độ chừng hơn ba mươi tuổi. Thân hình anh ta cao lớn dị thường, khuôn mặt tuy rằng góc cạnh như vẫn thấy được phần nào là đường nét của sự phúc hậu. Đặc biệt, ánh mắt của người này vô cùng hoạt bát, thoạt nhìn qua thì hoàn toàn có thể đoán biết được sự lanh lợi trong hành động. Thầy Hữu thấy anh ta tiến lại gần thì liền nói lớn:- Mấy năm không gặp, cậu trông khá hơn trước nhiều rồi đấy. Người đàn ông mau miệng:- Thầy cứ nói quá, năm ấy nếu như không có thầy cứu giúp thì tôi đã bỏ mạng trên biên rồi. Người đàn ông cười sảng khoái, anh ta lại tiếp:- Thầy xem, những gì thầy cần tôi đều đã sắm đủ, ba cỗ quan tài cùng đồ vàng mã tôi đều sắp xếp ngay ngắn trong khoang giữa của thuyền lớn. Mọi thứ đều sẵn sàng, chỉ chờ lệnh thầy mà thôi. Người này ngôn từ quảng giao, xem cách anh ta nói chuyện thì hình như bản thân đã từng mang ơn cứu mạng của thầy Hữu. Đoạn anh ta chỉ tay về phía mấy con đò nhỏ, miệng nói:- Tôi đặc biệt nhờ vả hai tay chèo thuyền thượng hạng tới đây để giúp đỡ thầy, hy vọng họ sẽ đảm bảo được sự an toàn cho mấy người khi ra đến vùng hợp thuỷ.Thầy Hữu nghe vậy thì liền lấy làm ưng thuận.- Cậu thật cẩn thận quá, Hữu đây có tài cán gì mà lại được cậu trân trọng đến vậy. Nếu như qua được chuyến này, tôi hứa sẽ không để cậu phải chịu thiệt thòi. Thầy Hữu nói rồi liền nhanh nhẹn bước lên chiếc thuyền lớn đang đậu bên mé phải của mép nước. Người đàn ông lạ mặt thấy vậy thì cũng nhanh nhẹn theo sau, hai người này trên thuyền nói cười rất sảng khoái. Chừng độ mươi phút, thầy Hữu một tay đỡ mã, một tay ôm hoa, nụ cười vẫn còn đương đọng lại trên khuân miệng móm mém. Thầy nói:- Tử Thanh, cậu cùng mấy người giúp ta bày biện đàn lễ trước tượng đài của Tả Thánh Thái Sư, ta tranh thủ vào bên trong yết bái đương cảnh bản thần rồi sẽ trở lại.Kỳ thực, một con người có cá tính bất phàm, nội tâm đặc biệt như Tử Thanh, ít ai sẽ nghĩ rằng cậu ta cũng là một tay khéo léo trong mấy việc như têm trầu, chọn hoa. Nhìn đàn lễ do Tử Thanh bày biện thật khiến cho con người ta phải say mê cái thứ hương sắc đượm vị trên những nhành hoa, cánh trầu. Xong xuôi đâu đấy, Tử Thanh cùng chúng tôi đứng gọn vào một bên. Bởi lẽ, nơi đặt tượng đài của Tả Thánh Thái Sư vốn là trên một mũi thuyền được làm bằng đất đá, tính từ nơi đặt tượng cho đến mũi thuyền thì không mấy rộng rãi về cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Tử Thanh châm ba nén nhang, cậu ta lẩm bẩm khấn vái một hồi, đoạn quay lưng nhìn về phía con nước vẫn đang cuồn cuộn. Ánh mắt nặng trĩu là bầu tâm sự mà bản thân đã đem theo trên khắp quãng đường từ Nam Định tới Bạch Hạc. Tử Thanh lúc bấy giờ ngân nga hát, lời ca nghe thật ý vị lắm:- Bồng bềnh nhân thế kiếp âm dương, đùng đùng sóng cuộn nổi bên đường. Ta nghe ai nói về sinh tử, hỏi cửa hoàng tuyền có tương tư. Tử Thanh ánh mắt trùng xuống, cậu ta nhìn vào dòng chảy mà im lặng hồi lâu. Bất giác, Tử Thanh quay sang tôi, miệng nói:- Cậu cầm lấy tấm vải này, khi nào trăng tàn mây khuất thì hãn mở nó ra.Bản thân tôi lúc ấy thật sự vô cùng hiếu kì, Tử Thanh càng lúc càng thần bí. Con người cậu ta quả thực khó đoán vô cùng. - Thời khắc đã điểm, tất cả xuống thuyền lớn để chuẩn bị. Thầy Hữu nói xong thì liền vội vã cùng người đàn ông lạ mặt xuống thuyền. Khi tất cả đã hội họp đủ trên khoang lớn, thầy Hữu mới bắt đầu lấy trong bọc vải ra mấy tầm bùa hình bát giác. Đoạn thầy Hữu cặn dặn:-Ba cậu mỗi người một tấm, giựt tóc của mình rồi cuốn vào.Chúng tôi cẩn trọng làm theo, duy nhất chỉ có anh Thuận là chần chừ, anh ta đánh mắt sang mấy cỗ quan tài ở kế bên, đoạn hỏi thầy Hữu:- Thầy Hữu, thứ này để làm gì vậy?Không gian bốn bề lúc đấy im lặng đến tột cùng, chúng tôi mấy người nhìn nhau thất thần chẳng ai nói điều gì. Duy chỉ có thầy Hữu cùng Tử Thanh là còn giữ được nét bình tĩnh, thầy Hữu trấn an:- Ta định làm lễ nhập quan giả cho ba cậu để mấy người có thể thông linh được âm dương trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy rằng Tử Thanh có học được đạo pháp khai nhãn, nhưng điều này vẫn rất cần thiết. Bởi lẽ, thứ bùa thuật này không chỉ giúp ta thấu thị được âm phần, nó còn đặc biệt khiến cho bản thân ta cũng như những âm vong quỷ tướng có thể tương giao tác động lẫn nhau. Hiểu đơn giản là một vong linh khi công năng đủ mạnh thì hoàn toàn có thể hạ sát được mấy người các cậu.Thầy Hữu trầm ngâm nhìn sang Tử Thanh, khuôn mặt có đôi chút nghi ngại, thầy Hữu thở dài, tiếng thở như muốn kéo cả bầu không gian xuống tới tận cùng nơi đáy vực. Tử Thanh nhìn chúng tôi mỉm cười, nụ cười này thực gượng gạo lắm. Hình như, có vài nét khắc khổ đương ẩn hiện đâu đó trong ánh mắt của cậu ta. Lại nói về thầy Hữu, khi chúng tôi đã lấy tóc cuốn kín tấm bùa, thầy Hữu liền lật đật di chuyển ra phía sau của con thuyền, đoạn chỉ vào mấy hình nộm giấy mà nói: - Mỗi người chọn lấy một hình nhân rồi bỏ vào quan tài, tấm bùa phải đặt dưới đầu của hình nộm. Các cậu chịu khó cắn tay bứt máu, nhỏ vài giọt lên tứ chi của thứ này. Chúng tôi theo lời của thầy Hữu mà làm, Tử Thanh liền bỏ hình nhân vào chiếc quan tài ở chính giữa, anh Thuận thì bên phải, còn tôi lại bên trái. Xong xuôi, thầy Hữu lấy ba bát nhang để vào trong từng chiếc quan một bát. Đoạn nói:- Ba cậu mỗi người hai nén nhang, một nén cắm vào bát, nén còn lại thì giữ lấy.Mọi thứ lúc này xem chừng thì đã được chuẩn bị một cách kĩ lưỡng, thầy Hữu lập tức ra dấu cho Tử Thanh. Hiểu ý, Tử Thanh nhanh nhẹn cầm lên hai chiếc la bàn từ trong tay nải của thầy Hữu, một chiếc có chữ tàu, một chiếc thì lại không hề thấy mũi kim. Cậu ta đặt hai chiếc la bàn vào trong lòng bàn tay, miệng lẩm bẩm mấy thứ phổn ngữ nghe hệt như đang thủ thỉ. Hiếu kì, tôi đưa mắt sang nhìn vào hai chiếc la bàn, kì lạ, một chiếc trên tay trái của Tử Thanh thì kim nam châm xoay vòng liên tục, chiếc còn lại thì thoạt bất ngờ vỡ tan mặt kính. Cả thầy Hữu cùng anh Thuận lúc bấy giờ cũng đều được chứng kiến cảnh tượng quái dị này.- Thuận đâu, lấy thần kiếm chỉ vào kim la bàn đang quay!Thầy Hữu quát lớn, giọng điệu nghe thực gấp gáp. Giật mình, anh Thuận lật đật mở hộp gỗ lấy kiếm, anh ta một tay dơ lên cao, một tay chỉ thẳng thần kiếm vào mặt của chiếc la bàn. Không gian lúc này như đương chậm lại, ai nấy cũng đều tập trung cao độ nhìn vào sự chuyển động của kim châm. Tiếng mòn rỉ trên sắt thép lâu ngày vang lên yếu ớt một hồi, chiếc kim định hướng dần dần chậm lại cho đến khi nó chỉ thẳng vào phương vị tây bắc, thầy Hữu thấy vậy thì cả kinh.- Không ngờ nơi này đã từng có cao nhân ghé qua, việc dựng lên tượng đài Chiêu Văn Vương quả thực không hề đơn giản như những gì chúng ta thấy. Theo như chiếc la bàn này, cửa duy nhất trong vạn vong ở đây có thể phá được chính là cửa tây bắc. Và trùng hợp thay, tượng đài Chiêu Văn Vương cũng nhìn theo hướng đó. Như vậy há chẳng phải là sự chỉ điểm của cố nhân? Cả thầy Hữu cùng Tử Thanh đều tỏ ra vô cùng tâm đắc với dữ kiện này, hai người họ hệt như đương tìm được một bí mật kinh thiên động địa vậy. Thầy Hữu bước ra mũi thuyền, đoạn lên gọi hai người đằng xa đi đò lại gần chiếc thuyền lớn. Thầy Hữu đưa cho họ mỗi người một cây kì lệnh ngũ sắc bản to, đoạn dặn dò rất kĩ:- Hai người cầm cờ này đi đò theo hướng tay ta chỉ, tới dòng hợp thuỷ thì giữ nguyên vị trí, lát nữa dù có điều gì kinh hãi thì cũng phải vững tâm, không được hoảng loạn kẻo mang hoạ diệt thân. Hãy nhớ, tất cả chỉ là ảo ảnh mà thôi. Chúng tôi lúc này đều đã tề tựu đầy đủ trước mũi thuyền lớn, thầy Hữu đốt lửa châm nhang, toàn thân hướng thẳng về phía tượng đài của Chiêu Văn Vương, khuôn mặt tỏ rõ là sự kính trọng đến muôn phần. Thầy Hữu hô:- Họ Nguyễn con là Văn Hữu, tự Phúc Môn, nay dâng nhang mà thành tâm khấn vái chư vị linh thần tiên tổ Đại Việt. Họ Nguyễn con vì cơ duyên mà được biết đến quỷ trận vạn vong trên đất Bạch Hạc, lại từng nghe nơi đây linh khí đắc địa, thần nhân ngự về, quả thực không nên để cho những thứ như ma binh quỷ tướng nơi đất bắc xâm phạm. Nay Hữu con theo sự chỉ điểm của Tả Thánh Thái Sư, hộ pháp thần tướng hai bên là Lê Thạch và Hà Anh, được biết có ba người trần gian là tam niên xuất thế. Hữu con vì sinh lòng hiếu đạo, muốn được trả lại sự tôn nghiêm cho non sông Đại Việt, bản thân đã chủ động triệu tập ba người này lại. Hôm nay, xin được bố cáo với trời đất, kính mong chư vị chứng dám cho lòng thành của mấy người chúng con mà hiển linh ứng cứu.Thầy Hữu vừa dứt lời thì lập tức chiếc thuyền của chúng tôi chao đảo dữ dội, sóng nước cuồn cuộn nổi lên trông thực kinh hồn. Chỉ trong chớp mắt, từng tầng mây đen đã chồng chéo lên nhau mà phủ kín cả bầu trời, cảnh sắc thực giống như một bức hoạ đồ hắc ám, lạnh lẽo. Thoạt, có cơn gió lớn thốc mạnh về phía chúng tôi, bụi cát mịt mùng làm mờ đi toàn bộ cảnh vật trước mắt. Tôi cố định thần trở lại, khi mọi thứ lúc này dần được hoạ hình một cách rõ nét, chính bản thân tôi cũng không thể nào giấu đi được sự kinh ngạc. Bấy giờ, chúng tôi đương đứng trên một con thuyền gỗ vô cùng đồ sộ, theo sau là ba chiếc thuyền nhỏ có cùng một thiết kế. Đặc biệt, trên mỗi chiếc thuyền này đều có sự hoạt động của nhân mạng, tất thẩy bọn họ đều mang trên mình là giáp phục nhìn hệt như quân lính của các triều đại phong kiến. Tôi đánh mắt sang anh Thuận, nét mặt anh ta lúc này cũng không khác gì tôi là mấy, thoạt nhìn qua là hoàn toàn bắt được cái sự rối ren trong suy nghĩ. Đúng lúc ấy, thầy Hữu hô lên:- Chúng ta đã bước vào ảo ảnh của âm phần, tất cả phải cẩn thận, những thứ ở đây tuy rằng hư thực bất phân nhưng lại hoàn toàn có thể tác động được vào thực thể của con người. Tôi tiếp tục quan sát xung quanh, cảnh sắc Bạch Hạc bấy giờ đã có sự thay đổi một cách rõ rệt, bốn bề rộng khắp ra muôn phương, sóng nước mênh mông trùng điệp đến quá cả tầm mắt. Quả thực là một ảo cảnh vô cùng ngoạn mục. Phía trước, hình như có mấy người đương đi thuyền độc mộc, họ mặc kim giáp trông thực khác biệt, trang phục này được ghép lại từ nhiều những miếng sắt nhỏ hình vuông, hai bên bả vai được kéo dài thành hình tam giác đủ để che phủ hết tất thẩy những điểm trọng yếu từ cổ trở xuống. Mấy người này đầu đội nón sắt, đỉnh nón có một thanh kim loại dài được vuốt nhọn trông hệt như đầu thương. Họ di chuyển đến cách thuyền chúng tôi chừng vài mét, sơ qua cũng phải đến độ hai chục nhân mạng.- Nguyên triều hiệu sứ thuỷ quân vạn hộ phủ, trấn cổng tây bắc vạn vong Ngột Lang Sứ. Kẻ nào trên thuyền muốn đến phá trận thì mau bước ra xưng danh.Kẻ lớn giọng vừa rồi nhân diện trông thực quái gở, hai bên gò má của hắn nổi cao, ánh mắt nặng trĩu là những hằn học không nguôi. Thầy Hữu nghe được lời kích tướng này thì cũng lấy làm ấm ức lắm, đoạn gọi anh Thuận lại gần:- Tam niên xuất thế, Thuận nhi bước lên nghe phong. Nay chuẩn theo sắc lệnh của Chiêu Văn Vương mà tấn phong cho Thuận nhi làm Thuỷ Quân Đại Trương Quân, hai bên tả Hữu có nhị vị huynh đệ Tử Thanh, Ngọc Quang theo sau tương trợ. Lập tức chỉ huy đại binh tiến lên nghênh địch. Bốn bề lúc này cuồng phong nổi lên, tiếng trống dồn dập vang lên đến tận trời xanh nghe thực kiêu hùng. Nhân mã trên thuyền ai nấy cũng hò reo khích lệ chủ tướng, đây hoàn toàn không phải những điều dễ thấy trong cuộc đời, dẫu chỉ là một thứ ảo cảnh, nhưng những gì mà tai nghe mắt thấy lại chân thực đến vô cùng. Anh Thuận cầm kiếm đứng ra mũi thuyền, miệng quát lớn xuống phía dưới:- Ta người Hải Dương, tên Thuận, kẻ dưới kia có bản lãnh thì lên đây. Tên tướng triều Nguyên nghe thế thì đùng đùng chửi bới, hắn ta dồn sức đạp chân xuống mặt thuyền mà nhảy lên chỗ chúng tôi. Thân thủ hết sức kinh ngạc, tên này tuy rằng lực lưỡng nhưng sự nhanh nhẹn của hắn ta thì thực không thể xem thường. Anh Thuận dơ kiếm ngang ngực mà lao tới, chiêu thức này phải chăng là muốn đoạt mạng tên tướng Nguyên? Việc này thật khó đoán định. Tên tướng Nguyên thấy đối phương ra đòn hiểm hóc thì liền thu mình mà nhảy sang một bên, hắn ta rút đao bên sườn chém xuống phía sau lưng của anh Thuận. Bất giác, anh Thuận ngã hẳn người xuống, thì ra anh ta đã biết trước điều này nên mới cố tình buông sức hạ thân. Kế đó, anh Thuận liền vung kiếm quét ngang tầm mắt cá chân của tên tướng Nguyên. Tên này cũng chẳng phải một tay vừa, hắn ta lần lượt nhấc hai chân lên để tránh đòn, chỉ trong chớp mắt mà chiêu thức đã ngưng lại. Anh Thuận bật dậy, anh ta lùi lại phía sau dồn sức rồi bất ngờ choãi người vung kiếm ra trước. Tên tướng Nguyên khéo léo vô cùng, hắn đứng rộng chân, người ngả hẳn ra phía sau, tên này căn đúng khi mũi kiếm của anh Thuận đâm tới thì liền xoay mình trên không mà né đi. Chiêu thức của hắn không chỉ dừng lại ở mức đơn giản như vậy, khi thực hiện cú xoay vòng, hắn còn nhanh nhẹn cầm đao chém lên ngang người anh Thuận, nhét chém đó tuy rằng không sâu nhưng cũng đủ khiến cho anh Thuận phải thất thế. Bấy giờ, xung quanh tiếng trống giục giã ngày một nhanh dần, ba quân reo hò vang dội khắp cả một vùng trời, chỉ nghe thôi cũng đủ làm cho con người ta phải cảm thấy kinh hồn. Chợt, Tử Thanh lao lên, anh ta tay không tiến tới tung quyền nhắm thẳng vào ngực của tên tướng Nguyên. Anh Thuận thấy thời cơ đã điểm thì cũng xông thẳng tới, trước sau tương trợ rất nhuần nhuyễn. Dẫu vậy, tên tướng giặc này thân thủ lại hơn người, hắn ta né đòn của anh Thuận, một tay cầm đao đâm thẳng vào bụng của Tử Thanh, máu tươi đỏ lòm chảy xuống. Cậu ta gục ngay trên sàn gỗ của thuyền lớn, tình thế vô cùng hỗn loạn. Tên giặc bắc đắc chí nhìn Tử Thanh cười lớn ra bộ hả hê lắm, anh Thuận lợi dụng khi hắn ta đương không để ý thì liền một kiếm từ phía sau vung lên, tên tướng Nguyên vì bất ngờ nên liền quay đi nhưng không kịp, thần kiếm lúc này đã đâm ngập quá ổ bụng, hắn ta lảo đảo một hồi rồi ngã xuống đất. Toàn thân chảy thành đống bày nhày đen đặc. Thấy sự đã yên, anh Thuận vội vã tiến đến cầm máu giúp Tử Thanh. Bất ngờ, trên trời nổ ba tiếng sấm vô cùng mãnh liệt, bốn bề quang mây tạnh gió, ngũ sắc hào quang toả sáng chói lọi trên đỉnh đầu, chỉ nghe trong không trung có tiếng người nói vọng lại. - Đệ Tam Quan lớn ngang đây, gặp phen hắc đạo che mây phủ trời. Ra tay diệt giặc giúp đời, mạch long cuồn cuồn đời đời phồn vinh.Mọi thứ ảo ảnh thoạt nhiên biến mất, chúng tôi trở lại cảnh sắc trên con thuyền gỗ lớn đương lênh đênh giữa dòng. Hai bên bờ sông, cỏ cây đua nhau toả hương khoe sắc, tất thẩy đều tươi tốt đến lạ kì. Thứ không khí nơi này vô tình trở nên sảng khoái, chỉ cần hít một hơi thật dài, cảm giác sẽ như được bổ sung thêm một luồng sinh khí cuồn cuộn. Lại nói về Tử Thanh, cậu ta thần sắc nhợt nhạt, toàn thân dựa vào bên mạn thuyền, ánh mắt phóng về nơi muôn ngàn vạn dặm, trông cậu ta lúc này thì thật không giống con người của thường nhật, có nét gì đó buồn lắm trên khuôn mặt của cậu ta thì phải. Hoạ chăng, giữa những câu chuyện tâm linh kì bí, giữa những dòng nước lên xuống tựa hồ như lòng người, có điều gì khiến cho cậu ta phải nặng lòng hay sao? Thầy Hữu lúc này mới cất tiếng:- Vạn vong đã mất cửa tây bắc, việc hoá giải này coi như xong, quỷ khí sẽ tự động tan dần, long mạch nơi đây nội trong vài năm nữa sẽ thịnh phát trở lại. Duy chỉ có điều... Thầy Hữu ngập ngừng, Tử Thanh liền quay sang nhìn từng người chúng tôi rồi cười nhạt. Bấy giờ, ngay sát mạn thuyền, thoạt nhiên xuất hiện một xoáy nước vô cùng lớn, chúng tôi đang bận tâm quan sát điều này thì bất ngờ Tử Thanh liền trèo qua mạn thuyền, cậu ta chẳng nói một lời, cũng không ai biết rằng cậu ta muốn làm gì. Đoạn Tử Thanh bỏ hai tay khỏi mạn thuyền, cậu ta vội vã buông mình theo dòng nước đang dữ tợn, tất cả từ đầu chí cuối chỉ xảy ra trong vòng chớp mắt. Anh Thuận thấy thế thì toan lao theo, người đàn ông lạ mặt từ trong khoang thuyền vội vã chạy ra gàn lại:- Mùa này nước đang lên, xoáy nước lại lớn như vậy, cậu nhảy xuống chẳng khác nào tự đưa mình vào chỗ chết.Anh Thuận trong cơn hoảng loạn thì liền hét lớn:- Chẳng lẽ để cậu ta chết sao? Thầy Hữu, như này là như nào?Khuôn mặt thầy Hữu lúc đó lạnh tanh, ánh mắt vô hồn nhìn xuống con nước mà đẫm lệ. Thầy Hữu đứng đó, giữa trời đất bao la, giữa cuộc đời của một con người đã đi đến quá nửa, hình như, có phần nào đó xúc cảm đang trì trệ, đang đau xót, đang khổ ải với những gì mà bản thân vừa được chứng kiến.- Còn nhớ lúc ở Bảo Lộc, trong số những con hình nhân thế mạng mà ta đã dùng để cúng tiến nhằm giải trừ tai ách cho các cậu thì có thiếu đi một con. Chính Tử Thanh hình như đã cố tình tạo nên thiếu xót này, bản thân cậu ta khi lên quẻ bói ở Nam Định đã đoán biết được rằng ngày hôm nay cậu ta phải chết. Và cái chết này có lẽ là để bảo toàn tánh mạng cho tất thẩy chúng ta. Việc chúng ta đại phá vong trận, đánh tan hồn phách của quỷ tướng, dù là điều nhân nghĩa hay sai trái thì cũng đã tạo nên một nghiệp sát nhất định cho chính bản thân. Xưa nay đối với các vong linh, khi đến một thời điểm nhất định, hồn phách đều phải quy về thập điện diêm la để được luận công định tội, kẻ tốt thì được luân hồi, kẻ xấu thì bị đẩy vào cửa ải để tiếp tục tu tập. Nay ta đánh tan hồn phách của quỷ tướng, hành động thực chẳng khác nào huỷ hoại cơ hội siêu sinh của hắn. Nếu như xét theo đúng nghiệp quả nhân gian, một trong chúng tất phải gánh hoạ sát thân. Dẫu rằng đã làm lễ giải trừ nhưng bốn cái hoạ nhẹ ắt phải bằng một cái hoạ lớn. Tử Thanh vì biết được điều này nên đã lấy thân mình để đền tội cho tất cả. Cậu ta lục thân không còn, hiếu sinh hiếu đạo lại một lòng hết mực mà cứu dân độ thế, chỉ mong ở nơi chín suối sẽ được yên nghỉ.Tất cả chúng tôi đều yên lặng, giữa cái cảnh sắc thiên nhiên sóng nước hùng vĩ, giữa bầu trời xa cách đến vạn phương, lòng ai nấy cũng nặng trĩu, chẳng một nhãn quan nào thu về được sự thi vị trong cảnh vật. Giờ đây, có một chút kì lạ đang dâng lên trong lòng, có một thứ sâu sắc đang xé nát tâm can...Một năm sau khi Tử Thanh mất, cô Trà và anh Đoan đã chính thức bình phục hoàn toàn, chúng tôi sau đó dần mất liên lạc với thầy Hữu. Cho đến một ngày, mẹ con tôi nhận được một bưu kiện từ Nghệ Tĩnh gửi ra, ở đó có một bức thư tay có đề tên Văn Hữu cùng hai cuốn sách đã cũ. Đại loại, thầy Hữu không hề thấy nhắc đến nơi chốn cụ thể, bản thân chỉ nói sơ qua rằng hiện tại đương vui thú điền viên ở một vùng quê trên đất Nghệ, tránh xa thời kì mạt pháp vô đạo. Thầy Hữu còn gửi kèm cho tôi hai cuốn sách, một cuốn có tên là "An Nam lược đồ tự", một cuốn thì mất hoàn toàn bìa sách, trang đầu có bút tích của thầy Hữu. Thầy viết:- Đây là nhật kí của tôi trong suốt những năm tháng mà bản thân đã đồng hành cùng với âm phần và dương thế, nay trao lại cho người có thể đem nó mà biến trở thành một tuyệt phẩm li kì.-Hết phần 2---Nghiệp Âm phần 2 như vậy đã kết thúc, cảm ơn quý bạn đọc trong suốt quãng thời gian vừa rồi đã sát cánh cùng họ Nguyễn tôi. Hy vọng câu chuyện này sẽ cho quý bạn hiểu thêm về cuộc sống, về nhân sinh, về lịch sử và tâm linh ảo bí. Chắc chắn, giữa dòng đời này, tôi tin rằng sẽ có ngày chúng ta hiểu được cái gì gọi là duyên nghiệp. Hẹn gặp lại quý vị trong những tác phẩm tiếp theo của Ngọc Quang.
Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store