20 lá thư gửi một người bạn (Trích)
Một số trích đoạn trong tác phẩm hồi ký '20 lá thư gửi một người bạn' về anh trai và gia đình của Svetlana Alliluyeva (Nhà văn, Nhà thuyết giảng.) [Hồi đó, người ta không mấy quan tâm đến cái gọi là vấn đề dân tộc, mà chủ yếu chú ý đến những phẩm chất chung mà con người ở mọi nền văn hóa đều có. Anh trai tôi, Vasily từng nói với tôi: "Em biết không, Papa từng là người Gruzia đấy." Lúc đó tôi mới sáu tuổi, nên không hiểu anh nói gì, và anh giải thích: "Họ mặc áo choàng Circassia dài và dùng dao găm chém người ta." Đó là tất cả những gì chúng tôi biết về nguồn gốc Gruzia của mình.Cha tôi lúc nào cũng tức giận với những gì mà bạn bè từ Gruzia mang đến, những món quà như trái cây và rượu vang. Cha tôi đã cấm chuyện đó, tất cả những món quà ấy đều bị trả lại, và mẹ tôi, "người đàn bà người Nga ấy," lại bị trách móc. Thật ra, mẹ tôi sinh ra và lớn lên ở vùng Caucasus. Bà yêu mến Gruzia và hiểu rất rõ nơi đó. Nhưng bà cũng không khuyến khích kiểu "hào phóng" lấy của công làm quà này.Căn hộ của chúng tôi trong điện Kremlin do một quản gia trông coi, một bà người Đức đến từ Riga, Latvia, tên là Carolina Till do mẹ tôi tìm được. Bà là một phụ nữ duyên dáng, gọn gàng, sạch sẽ và tốt bụng, thường búi tóc cao kiểu cũ với trâm và búi tóc trên đỉnh đầu. Mẹ tôi giao toàn bộ ngân sách gia đình, vốn khá khiêm tốn cho bà, và bà ấy lo liệu mọi việc, kể cả chuyện ăn uống.Mẹ tôi rất thương anh trai cả của tôi, Yakov, anh là con trai của cha tôi với người vợ đầu tiên của ông, Yekaterina Svanidze. Anh Yakov, người chỉ kém mẹ tôi bảy tuổi, cũng rất yêu quý và tôn trọng bà. Bà đã làm mọi cách có thể để giúp cuộc sống khó khăn của anh ấy phần nào dễ chịu hơn. Bà ủng hộ anh ấy trong cuộc hôn nhân đầu tiên và đứng về phía anh ấy chống lại cha tôi, người luôn đối xử bất công với Yakov, với sự lạnh lùng mà anh ấy không đáng phải chịu. Mẹ tôi rất thân thiện với tất cả những người nhà Svanidze, với cô Sashiko, cô Mariko - các chị của người vợ đầu của cha tôi, và cả anh trai bà ấy, Alexander Svanidze và vợ chú ấy là cô Maria. Gia đình tôi, những người nhà Svanidze và các cậu, dì ruột của tôi, Anna, Fyodor, và Pavel, thường tụ tập ở nhà tôi như một gia đình lớn. ...Mẹ tôi là người trẻ nhất trong nhà ngoại trừ những đứa trẻ. Y tá và gia sư đều ngoài bốn mươi, còn đầu bếp và quản gia ngoài năm mươi. Tuy nhiên, tất cả họ đều yêu quý người phụ nữ trẻ đẹp, khéo léo, tế nhị của ngôi nhà và tôn trọng bà. Bà chỉ hơn anh trai cả của tôi bảy tuổi. Bà dịu dàng và tình cảm với anh ấy, thấu hiểu nỗi buồn của anh ấy. Bà đã chứng kiến anh ấy trải qua cái chết của đứa con gái sơ sinh, bà là niềm an ủi của anh ấy trong suốt cuộc hôn nhân đầu tiên không hạnh phúc. Bà đau khổ vì anh ấy, cố gắng làm cho anh ấy cảm thấy như ở nhà. Tuy nhiên, điều đó thật khó khăn, vì cha tôi đã không chấp thuận Yakov từ lần đầu tiên anh đến Moscow. Ông không chấp thuận cuộc hôn nhân đầu tiên của Yakov, không chấp nhận cách anh ấy học hành và về tính cách của anh ấy. Trong mắt ông, Yakov không bao giờ làm gì đúng. Mẹ tôi đã vô cùng đau khổ khi Yakov cố tự tử vào năm 1928, hoặc đó là năm 1929. Trong cơn tuyệt vọng vì thái độ của cha tôi, Yakov đã vào trong căn bếp của điện Kremlin và cố tự sát. May mắn thay, anh chỉ bị thương. Cha tôi thường chế giễu và cười khẩy, "Ha! Nó thậm chí còn không thể bắn trúng!" Mẹ tôi kinh hoàng. Phát súng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong bà, cái chết của chính bà sau này có thể chính là tiếng vang từ nó. Yakov yêu mẹ chúng tôi cũng như ông bà ngoại của tôi. Ông bà ngoại nhà Alliluyev của tôi đã chăm sóc anh ấy hết sức có thể. Sau khi cố tự tử, anh ấy đã đến Leningrad và sống trong căn hộ của ông ngoại tôi. Tôi có rất nhiều ảnh chụp ở nhà của chúng tôi. Chỉ cần nhìn qua là tôi sẽ nhớ lại tất cả. Mọi người trở nên sống động ngay trước mắt tôi. Đen trắng chuyển sang màu, đàn ông và phụ nữ di chuyển. Tôi nghe thấy họ nói chuyện với nhau. Chúng giống như ảnh tĩnh từ một bộ phim. Chỉ cần nhìn một lần là cuộn phim bắt đầu chạy, khiến tôi có cảm giác như mình đã từng thấy tất cả ở đâu đó trước đây.Mẹ tôi không thích rượu và do đó, bà sợ hãi khi những người khác uống rượu. Sau này, cha tôi kể với tôi rằng có lần mẹ tôi trở về nhà trong tình trạng rất say sau một bữa tiệc tại Học viện. Bà bị chuột rút ở tay. Cha tôi đặt bà lên giường và an ủi bà. "Sau tất cả, cuối cùng thì anh cũng yêu em một chút", bà nói với cha tôi như vậy. Ông kể với tôi về chuyện này sau chiến tranh. Ông nhắc đến mẹ tôi nhiều hơn trong những năm cuối đời và luôn cố gắng tìm ra những kẻ "có tội" nào đó để đổ lỗi trong cái chết của bà. Lần cuối cùng tôi gặp mẹ là vào đêm trước ngày bà mất, hoặc ít nhất là không quá một hoặc hai ngày trước đó. Bà gọi tôi vào phòng và bảo tôi ngồi trên chiếc takhta yêu thích của bà, đó là chiếc ghế sofa kiểu Gruzia. Mẹ dành nhiều thời gian để nói chuyện với tôi về việc tôi nên như thế nào và nên cư xử ra sao. "Đừng động đến rượu!", mẹ tôi nói. "Đừng bao giờ uống rượu!" Những lời này là tiếng vọng của những cuộc cãi vã liên miên giữa bà và cha tôi - người luôn cho con cái uống rượu theo kiểu của người Kavkaz. Theo cách bà nhìn nhận, chuyện này chắc chắn sẽ kết thúc tồi tệ. Có lẽ bà đã đúng. Dù sao thì anh trai tôi, Vasily cuối cùng cũng chết vì nghiện rượu.Bà là kiểu phụ nữ chỉ có thể yêu một lần, và bà yêu cha tôi bằng cả trái tim mình. Lý trí bà có thể phản đối điều đó, nhưng một khi bà đã trao đi trái tim mình, bà trao đi mãi mãi. Mẹ tôi cũng là một người phụ nữ của gia đình. Chồng, nhà cửa và con cái có ý nghĩa rất lớn đối với bà. Ý thức trách nhiệm của bà cũng vậy. Do đó, bất kể bà có nghĩ đến điều đó bao nhiêu lần, tôi không tin rằng bà có thể rời xa chúng tôi như thế.Điều khiến lò xo bung ra, nguyên nhân là chuyện nhỏ nhặt, tầm thường đến mức người ta nghĩ rằng sự việc xảy ra mà không có lý do gì cả. Đó là một cuộc cãi vã nhỏ tại một bữa tiệc kỷ niệm mười lăm năm Cách mạng Tháng Mười Nga. Cha tôi chỉ lớn tiếng với bà, "Này! Cô đó, uống một ly đi!" Mẹ tôi hét lên, "Đừng có mà 'này' với tôi!" Và trước mặt mọi người, bà đứng dậy và chạy khỏi bàn. Sau này, y tá của tôi mới bắt đầu kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra ngày mẹ tôi mất. Quản gia Carolina Till dậy sớm vào ngày hôm đó như thường lệ, bà chuẩn bị bữa sáng và đi đánh thức mẹ tôi. Bà chạy đến phòng tôi, run rẩy vì sợ hãi và ra hiệu cho y tá của tôi, không nói lời nào. Họ cùng nhau vào phòng mẹ tôi. Mẹ tôi nằm cạnh giường trong vũng máu. Tay bà cầm một khẩu súng lục Walther nhỏ mà cậu Pavel đã mang về từ Berlin....Cậu Pavel đang ở Đức khi mẹ tôi mất. Ông không thể làm gì khác ngoài việc cố tìm kiếm sức mạnh để chấp nhận cú sốc khủng khiếp này. Sau đó, ông sống ở Moscow. Tôi luôn nhớ ông mặc quân phục. Ông mảnh khảnh, cao và chân dài, giống như ông ngoại tôi, với đôi mắt nâu u sầu và vô cùng dịu dàng. Ông rất yêu Vasily và tôi, đặc biệt là sau khi mẹ chúng tôi mất, Sau đó, không lâu trước khi mất vào năm 1938, ông thường đến căn hộ của chúng tôi ở Điện Kremlin và ngồi hàng giờ trong phòng của Vasily hoặc phòng của tôi để chờ cha tôi. Ông sẽ thở dài và chán nản. Năm 1938, sau khi chú Alexander Svanidze và vợ chú ấy, cùng với dượng Stanislav Redens - chồng của dì ruột tôi bị bắt, cậu Pavel đã đến gặp cha tôi nhiều lần để cầu xin cho những người đồng nghiệp đang bị nhấn chìm trong con sóng khổng lồ. Nhưng điều đó chẳng có tác dụng gì. Vào mùa thu năm 1938, cậu Pavel đi nghỉ ở Sochi. Khi trở về, ông thấy tất cả đồng nghiệp của mình đều biến mất. Điều đó không tốt cho trái tim yếu ớt của ông. Có quá nhiều vụ bắt giữ đến nỗi nơi này như thể đã bị một cây chổi quét sạch. Cậu Pavel đột ngột qua đời vì một cơn đau tim trong văn phòng của mình. 2 năm sau, chú Alexander bị xử tử và vợ của chú ấy - cô Maria khi đó đang bị giam giữ cũng ngay lập tức lên cơn đau tim và qua đời. (Ở đây, Pavel là cậu ruột của Svetlana, còn Alexander là cậu ruột của Yakov. Dưới thời kỳ của Stalin đã xảy ra sự kiện 'Đại thanh trừng' khét tiếng với việc xử tử hàng loạt quan chức, tướng lĩnh cấp cao. Nhiều người trong số đó bị oan. Dù cho năm 1943 Yakov sống sót trở về từ trại tập trung đi nữa, nếu nghe tin cha mình đã xử tử người thân đã nuôi nấng mình 14 năm, có lẽ anh vẫn sẽ đi đến kết cục tự sát.)... Cuộc sống hiện tại, cuộc sống sôi động và hào nhoáng, chen chúc ở mọi phía, không để cho tôi chôn vùi mình trong quá khứ. Nó đang đưa tôi đi theo một hướng hoàn toàn khác. Con trai tôi đã đi Moscow để học vật lý. Nó muốn đến viện y khoa và đang chuẩn bị cho kỳ thi. Thật kỳ lạ khi trong số tám đứa cháu của mình, cha tôi chỉ chủ yếu quan tâm ba đứa, hai đứa con của tôi và con gái của anh Yakov, và rằng, mặc dù ông luôn lạnh lùng và bất công với Yakov khi anh còn sống, ông thực sự dịu dàng với con gái của anh ấy, Galina. Lạ hơn nữa là ông cũng thể hiện tình yêu và sự dịu dàng với con trai tôi, con trai của người chồng đầu tiên, một người Do Thái và là người mà cha tôi từ chối gặp dù chỉ một lần.Trong mười năm sau khi mẹ tôi mất, mặc dù cuộc sống gia đình tan vỡ, nhưng từ năm tôi sáu tuổi cho đến năm mười sáu tuổi, cha tôi là người có thẩm quyền cuối cùng, không thể tranh cãi trong mọi việc. Sau đó, bắt đầu từ năm 1942 hoặc 1943, việc học và một số sự kiện khác đã khiến mọi thứ thay đổi rất nhiều. Mối quan hệ của chúng tôi cũng thay đổi. Chúng tôi trở nên xa cách, và sau đó nó chỉ trở nên tồi tệ hơn. Thời gian cha gặp tôi và Vasily là trong bữa tối tại căn hộ. Ông sẽ hỏi tôi về các bài học, xem sổ điểm của tôi và đôi khi yêu cầu tôi cho ông xem vở bài tập. Ông thường ký vào sổ điểm của tôi, như các bậc cha mẹ vẫn thường làm, cho đến tận chiến tranh. Ông cũng đã ký vào sổ điểm của Vasily cho đến khi anh ấy đi học trường hàng không đặc biệt. Sau khi gia sư Alexander Muravyov của anh Vasily rời đi, việc học ở trường của Vasily ngày càng tệ hơn. Các giáo viên và hiệu trưởng nhà trường đã liên tục phàn nàn với cha tôi về hành vi của anh ấy và sự chậm tiến. Cha tôi đã nổi cơn thịnh nộ. Ông mắng chửi Vasily, đổ lỗi cho các dì tôi và cả nhà ngoại tôi vì điểm kém của anh ấy, nhưng mọi chuyện vẫn không khá hơn. Cuối cùng, anh trai tôi chuyển đến học viện hàng không Kacha, ở Crimea. Anh ấy học ở đó vào năm 1939. Chiến tranh nổ ra vào ngày 22 tháng 6 năm 1941. Anh trai cả của tôi là Yakov đã lên đường ra mặt trận vào ngày hôm sau cùng với lớp tốt nghiệp của mình tại Học viện Quân sự Frunze. Họ đã hoàn thành khóa học vừa kịp để ra trận. Anh ấy không bao giờ cố gắng trốn tránh nguy hiểm để được điều động đến hậu phương hoặc đến một sở chỉ huy phía sau chiến tuyến, thậm chí là chỉ để thoát khỏi việc bị đưa đến Belorussia, nơi tồi tệ nhất của mặt trận. Mọi thứ về anh ấy, tính cách của anh ấy, nghiêm túc, danh dự, tất cả đã ngăn anh ấy làm như vậy. Hơn nữa, vì cha tôi không cần anh ấy, mọi người đều biết điều đó, không ai trong các chỉ huy của quân đội dành cho anh ấy sự đối xử đặc biệt. Cha tôi sẽ chỉ tức giận.Có vẻ không phù hợp để Yakov trở thành một người lính chuyên nghiệp, vì anh ấy yêu chuộng hòa bình trong tận thâm tâm, nhẹ nhàng, hơi chậm chạp và cực kỳ ít nói, mặc dù bên trong rất kiên định. Về ngoại hình, ngoại trừ đôi mắt hình quả hạnh, anh không giống cha tôi. Anh trông giống mẹ mình hơn, bà Svanidze, người đã mất khi anh một tuổi. Có một sự giống nhau đáng kinh ngạc, nếu nhìn những bức ảnh của bà ấy. Anh Yakov hẳn là cũng thừa hưởng tính cách của bà, vì anh không bao giờ thô lỗ, khó chịu hay cuồng tín như cha tôi. Anh không tham vọng và không quan tâm đến quyền lực. Những phẩm chất của anh hòa hợp với nhau, cũng như những điều anh mong muốn trong cuộc sống. Anh không quá thông minh, nhưng anh giản dị, khiêm tốn, chăm chỉ và có năng lực. Anh tôi có một sức quyến rũ thầm lặng.Tôi chỉ thấy anh tức giận hai lần. Nếu không, tôi sẽ không bao giờ biết anh có khả năng tức giận. Cả hai lần anh mất bình tĩnh đều do thói quen chửi thề của Vasily trước mặt tôi, và nói chung là chửi thề bất cứ khi nào anh ấy muốn, bất kể ai đang có mặt. Yakov không thể chịu đựng được điều đó. Anh ấy quay sang Vasily như một con sư tử và họ ẩu đả với nhau. Yakov đã trải qua những năm đầu đời ở Tbilisi. Chị gái của mẹ anh là dì Sashiko đã nuôi anh khôn lớn. Anh đến Moscow để học khi còn trẻ, theo sự thúc giục của chú Alexander Svanidze. Anh đã có một khoảng thời gian rất khó khăn, sống trong căn hộ ở Kremlin với những người còn lại trong gia đình, cố gắng học tiếng Nga, điều không dễ dàng gì đối với anh. Rất có thể, anh sẽ có cuộc sống hạnh phúc và tốt đẹp hơn nếu sống cùng những người anh em họ của mình ở Gruzia.Yakov luôn cảm thấy mình như một đứa con riêng đối với cha tôi, nhưng lại không cảm thấy vậy với mẹ tôi, người mà anh thực sự là con riêng đối với bà. Anh ấy rất yêu mẹ tôi. Cuộc hôn nhân đầu tiên của anh ấy là một bi kịch. Cha tôi thậm chí còn không muốn nghe về cuộc hôn nhân đó, càng không muốn giúp đỡ. Ông lúc nào cũng đầy bạo lực và ức hiếp đối với anh. Sau khi Yakov tự tử trong bếp, viên đạn xuyên qua người anh, và anh bị bệnh trong một thời gian dài. Về sau, y tá của tôi kể với tôi rằng sau chuyện đó, cha tôi đối xử với anh còn tệ hơn trước, vì anh là một "kẻ yếu đuối".Sau khi bình phục, Yakov đến sống tại căn hộ của ông ngoại tôi ở Leningrad. Anh và vợ có một cô con gái mà anh rất yêu quý, nhưng cô bé đã mất khi còn nhỏ. Cuộc hôn nhân đầu tiên đã thất bại và sớm tan vỡ. Yakov là một kỹ sư và làm việc tại một nhà máy điện ở Leningrad. Giá như anh ấy có thể tiếp tục công việc yên bình này thì tốt biết mấy.Yakov trở về Moscow vào năm 1935 và vào Học viện Frunze. Khoảng một năm sau, anh kết hôn với một người phụ nữ rất tốt bụng đã bị chồng bỏ rơi, chị Yulia người Do Thái, và điều đó cũng khiến cha tôi không hài lòng. Ông không bao giờ thích người Do Thái, mặc dù ông không công khai thể hiện sự căm ghét của mình đối với họ vào thời điểm đó. Nhưng Yakov vẫn kiên định. Mặc dù anh biết tất cả những điểm yếu của Yulia, anh vẫn hào hiệp đứng ra bảo vệ chị ấy bất cứ khi nào có ai đó chỉ trích chị. Anh yêu chị ấy và yêu con gái Galina của họ rất nhiều, con bé sinh năm 1938. Anh Yakov là một người chồng và người cha tuyệt vời, anh phớt lờ sự phản đối rõ ràng của cha tôi đối với mọi sự lựa chọn của anh.Đôi khi Yakov xuất hiện tại căn hộ của chúng tôi ở điện Kremlin, chơi với tôi hoặc xem tôi làm bài tập về nhà trong lúc căng thẳng chờ cha tôi đến. Anh thường ngồi vào bàn trong im lặng. Yakov tôn trọng sự phán đoán và ý kiến của cha chúng tôi. Anh đã chọn trở thành một người lính theo ý muốn của ông. Nhưng họ quá khác biệt để có thể hợp nhau. "Cha toàn nói theo công thức có sẵn", Yakov đã từng phàn nàn với tôi như vậy. Sự dịu dàng và điềm tĩnh của Yakov khiến cha tôi, người luôn nóng tính và bốc đồng cảm thấy khó chịu.Yakov và gia đình anh ấy ở lại với chúng tôi tại Zubalovo mỗi mùa hè cho đến khi chiến tranh nổ ra. Chúng tôi học cùng nhau vào mỗi mùa xuân, anh ấy chuẩn bị cho kỳ thi của mình, tôi chuẩn bị cho kỳ thi của tôi. Chúng tôi trải một tấm thảm trên sàn và học ở đó. Tôi mười lăm tuổi và Yakov ba mươi ba tuổi khi chiến tranh bắt đầu. Tôi yêu mến anh ấy vì anh ấy rất nhẹ nhàng và ấm áp. Anh luôn yêu thương tôi và chơi đùa với tôi như một người cha. Sau này, tôi chơi với con gái anh ấy giống như anh ấy từng chơi với tôi lúc trước. Nếu không có chiến tranh, chúng tôi sẽ là những người bạn tốt nhất trong suốt cuộc đời. Yakov đã lên đường ra mặt trận ngay sau ngày chiến tranh nổ ra. Chúng tôi nói lời tạm biệt qua điện thoại, vì không có thời gian gặp nhau trước khi anh ấy lên đường. Đơn vị của anh được điều trực tiếp đến nơi hỗn loạn nhất, gần Baranovichi ở phía tây Belorussia. Chẳng mấy chốc không có tin tức gì cả. Yulia và Galina ở cùng cả gia đình chúng tôi ở Sochi. Vào cuối tháng 8, tôi đã nói chuyện với cha tôi qua điện thoại từ Sochi. Chị Yulia ở bên cạnh tôi, chị không bao giờ rời mắt khỏi tôi trong suốt thời gian tôi nghe điện thoại. Tôi hỏi cha tại sao chúng tôi không nghe tin tức gì về anh Yakov. Ông chậm rãi và thốt lên, "Yasha đã bị bắt làm tù binh rồi." Trước khi tôi kịp mở miệng, ông nói thêm, "Tạm thời đừng nói gì với vợ của Yasha." Yulia hỏi tôi có chuyện gì xảy ra. Tôi chỉ lặp đi lặp lại, "Cha cũng không biết chuyện gì cả." Tôi quá sốc trước tin tức này đến nỗi không thể nói với Yulia.Bằng cách nào đó, ông lại hoang tưởng rằng có ai đó đã "xúi giục" Yakov phản bội ông. Khi chúng tôi trở về Moscow vào tháng 9 năm đó, ông nói với tôi, "Con gái của Yasha sẽ ở với con một thời gian. Có vẻ như vợ của nó có vấn đề. Chúng ta sẽ phải điều tra." Vì vậy, chị Yulia đã bị bắt vào mùa thu năm 1941, bị giam giữ cho đến khi "hóa ra" chị ấy không liên quan gì đến việc đó, anh tôi cũng không cố ý đầu hàng. Vào mùa thu năm 1941, những tờ rơi có ảnh của Yakov đã được thả xuống Moscow. Anh trông đen và gầy đi rất nhiều. Anh ấy mặc quân phục, không thắt lưng hay cầu vai sĩ quan. Vasily mang một số tờ rơi chạy về nhà. Chúng tôi đã xem xét chúng rất lâu, hy vọng chúng là giả. Nhưng không, đó chính là anh chúng tôi. Nhiều năm sau, nhiều cựu tù binh chiến tranh đã trở về nhà từ các trại tập trung. Rất nhiều người trong số họ đã biết về chuyện của Yakov. Người Đức đã lợi dụng anh để tuyên truyền. Họ cũng biết rằng hành động kiên định của anh tôi là đáng trân trọng. Anh đã từ chối người Đức, vì vậy anh bị khiêu khích và đã phải chịu sự đối xử tàn nhẫn vì điều đó. Sau trận Stalingrad, vào mùa đông năm 1943, cha tôi đột nhiên nói với tôi: "Người Đức đã đề xuất trao đổi một trong những tù binh của chúng ta để đổi lấy Yasha. Họ muốn cha thỏa thuận với họ. Cha không thể làm vậy. Chiến tranh là chiến tranh." Tôi có thể nhận ra giọng điệu buồn bã và đau khổ của ông. Ông không nói thêm lời nào nữa và chỉ để một tờ gì đó bằng tiếng Anh trước mặt tôi, thư từ trao đổi của ông với Tổng thống Mỹ Roosevelt. "Dịch đi! Con đã học hết đống tiếng Anh này rồi. Con có thể dịch được không?" ...Cha đột nhiên lại nói chuyện với tôi về anh Yakov vào một mùa hè năm 1945, khi chiến tranh đã kết thúc. Khi đó, tôi và cha đã không gặp nhau trong một thời gian dài. "Người Đức đã giết anh Yasha của con. Cha có một lá thư chia buồn từ một sĩ quan Bỉ nào đó. Người Mỹ đã thả tự do cho tất cả bọn họ rồi." Ông nói một cách khó khăn và không muốn nói thêm nữa. Valechka, quản sự của cha tôi đã kể với tôi rằng ông đã nghe về cái chết của Yakov ở Đức. Lúc đó, họ đều nói dường như anh ấy rất đau khổ vì điều gì đó. Về sau những tài liệu khám nghiệm mà người Anh tìm thấy, tất cả chỉ ra anh ấy cố lao vào hàng rào điện. Có lẽ sau khi anh Yakov chết, mọi thứ đã quá muộn màng, cuối cùng cha tôi cũng cảm thấy đau đớn cho anh, và nhận ra rằng ông đã bất công với anh. Yakov đã bị giam giữ trong mấy năm, anh hẳn là khó chịu hơn bất kỳ ai khác. Anh là một anh hùng thầm lặng. Chủ nghĩa anh hùng của anh cũng vô tư, đáng kính và khiêm tốn như toàn bộ cuộc đời anh vậy.Cha tôi kể rằng khi đạo diễn Mikhail Chiaureli đang thực hiện một bộ phim, ông ấy đã tiếp cận cha tôi để lấy ý tưởng về Yakov. Chiaureli là một kẻ ngốc, ông ta cảm thấy rằng có thể khai thác câu chuyện bi thảm của Yakov để lấy tiếng vang và ca tụng cha tôi như một chủ nghĩa sùng bái cá nhân. Cha tôi không đồng ý, tôi nghĩ ông ấy nên làm vậy. Chiaureli sẽ chỉ biến anh tôi thành một công cụ mà thôi. Cảm ơn Chúa, ít nhất, cha tôi không muốn ai khác tiếp tục lôi anh trai tôi ra để phục vụ lợi ích của họ, đó là điều cuối cùng ông ấy có thể làm cho anh. ...Vào những năm khi tôi là sinh viên sau đại học tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, tôi có một khoản trợ cấp lớn và tương đối khá giả. Thỉnh thoảng cha tôi vẫn đưa tiền cho tôi và dặn: "Đưa cho con gái của Yasha nhé"... Đôi khi ông ấy tức giận và quát mắng tôi: "Mày là cái thứ gì thế? Một kẻ ăn bám, sống bằng những gì người khác cho mày?" Khi ông ấy nhận ra rằng tôi đã tự trả tiền cho các bữa ăn và căn hộ của mình, ông ấy mới bình tĩnh lại một chút. Ông ấy mừng vì tôi chuyển đến một căn hộ của riêng mình; ông ấy cảm thấy tôi đã được chu cấp đủ rồi. Không ai cố gắng hơn ông ấy trong việc truyền cho con cái mình ý tưởng rằng chúng phải tự nuôi sống bản thân. "Căn hộ, xe hơi, đừng nghĩ rằng chúng là của mày. Chúng không thuộc về mày", ông ấy nói với tôi như thế hết lần này đến lần khác. Và giờ ông ấy lại đưa cho tôi một gói tiền, với lời nhắc nhở cụt ngủn: "Đưa cho con gái của Yasha"....Vasily được chuyển đến Moscow từ Đông Đức vào năm 1947, nhanh chóng được bổ nhiệm làm chỉ huy không quân của Quân khu Moscow. Nhưng mọi người đều biết anh là một người nghiện rượu. Anh say rượu nặng đến mức không thể tự lái máy bay của mình nữa. Cha tôi nhìn thấy tình trạng của anh ấy. Ông mắng chửi một cách không thương tiếc. Ông lại làm nhục và đánh đập anh như một đứa trẻ trước mặt mọi người, chẳng có tác dụng gì. Vasily bị bệnh, nhưng anh không muốn được chữa khỏi, không ai dám đề xuất điều đó với anh nữa. Người duy nhất mà anh ấy quan tâm là cha tôi. Vasily được những kẻ to lớn như Beria, Bulganin ủng hộ. Họ trao cho anh những huy chương, cấp bậc ngày càng cao, ngựa, ô tô, đặc quyền, mọi thứ. Họ chiều chuộng và làm hỏng anh để hi vọng sau này có lợi cho họ. Năm 1952, chính cha tôi đã ra lệnh cách chức anh khỏi vị trí của mình tại Quân khu Moscow vì vi phạm kỷ luật, suy đồi đạo đức.Vì vậy, anh ấy ở nhà và uống rượu. Chỉ cần một ngụm vodka là đủ để khiến anh ngã gục trên ghế sofa và ngủ thiếp đi. Anh vẫn ở trong tình trạng này cho đến khi cha chúng tôi qua đời. Anh tin rằng cha chúng tôi đã bị "đầu độc" hoặc "bị giết". Trong suốt thời gian trước đám tang, anh cáo buộc chính phủ, các bác sĩ và mọi người xung quanh. Anh la hét và nổi giận. Vasily đã được triệu tập đến Bộ Quốc phòng, người ta đề nghị anh im lặng. Họ đề nghị cho anh chỉ huy một trong những quân khu. Anh đã từ chối thẳng thừng. Họ đề xuất cho anh đến một vị trí khác. Một lần nữa, anh từ chối. Họ hỏi: "Sao anh từ chối nhận lệnh của Bộ Quốc phòng? Anh không còn coi mình là sĩ quan quân đội nữa sao?" - "Không, tôi không coi mình là sĩ quan gì hết!", anh trả lời. "Vậy thì hãy tháo bỏ các huân chương của anh đi!" Bộ trưởng kết luận trong cơn tức giận. Và thế là anh về nhà, chẳng có việc gì làm ngoài uống rượu.Anh tôi đã bị bắt vào ngày 28 tháng 4 năm 1953, sau một cuộc nhậu nhẹt. Mọi thứ đều được phơi bày, những thỏa thuận mờ ám, chi tiêu, lạm dụng chức quyền, dùng nắm đấm với cấp dưới khi đang làm nhiệm vụ. Những âm mưu cấp cao dẫn đến việc bắt giữ một số người cũng được đưa ra ánh sáng. Vasily bị kết án tám năm tù. Anh không thể tin được. Anh đã gửi thư cho chính phủ, những lá thư thừa nhận mọi lời buộc tội chống lại anh, thậm chí cả những lá thư đe dọa. Anh đã không còn biết mình là ai hoặc mình đang ở đâu, không nhận ra rằng giờ đây anh không còn là Thái tử Đỏ nữa.... Vào tháng 1 năm 1956, tôi đã đến gặp anh ấy. Người vợ thứ ba của anh, Kapitolina đã đi cùng tôi. Tôi sẽ nhớ mãi chuyến thăm đau đớn đó khi nào tôi còn sống. Chúng tôi gặp nhau tại văn phòng của quản giáo. Một bức chân dung lớn của cha tôi còn sót lại từ những ngày xưa được treo trên tường. Anh tôi không cố gắng che giấu sự tuyệt vọng của mình. Anh rõ ràng đang tìm kiếm một ai đó để nhờ cậy, anh đã viết thư cho từng thành viên chính phủ, thề rằng anh đã nhìn nhận lại vấn đề và sẽ cư xử tốt hơn. Tôi bảo anh đừng viết thư nữa mà hãy kiên nhẫn và đợi một chút, hãy cư xử đúng mực, giữ gìn phẩm giá và im lặng. Anh lao vào và suýt đấm tôi. "Tao nhờ mày giúp đỡ, và mày khuyên tao nên im lặng?" Khi bình tĩnh lại, anh quay sang tôi và nói cho tôi tên những người mà anh nghĩ có thể giúp được. "Sẽ tốt hơn nếu anh tự viết thư cho những người đó" anh nói. Sau đó, anh thậm chí còn nghĩ đến việc liên lạc với người Trung Quốc. "Họ sẽ giúp anh thôi, Svetlana." Vasily cứ nói vậy, Tôi đã cố gắng hết sức để giải thích với Nikita Khrushchev rằng chứng nghiện rượu của Vasily là một căn bệnh, anh ấy không kiểm soát được bản thân, anh ấy không thể chịu trách nhiệm về hành vi và lời nói của mình. Ngay sau đó, Khrushchev đã triệu tập Vasily và dành hơn một giờ đồng hồ với anh ấy. Về sau, Vasily cũng nói rằng Khrushchev đã đối xử với anh ấy "như một người cha", và dù Khrushchev khi đó là người lên án và xét lại cha tôi một cách kịch liệt, ông ấy vẫn bao dung với Vasily. Ông ấy ôm anh và cả hai đều khóc. Vasily được ở lại Moscow, được cấp một căn hộ, cấp bậc tướng lĩnh và trợ cấp quân đội của anh được khôi phục. Anh được phục hồi tư cách là đảng viên Đảng Cộng sản. Tất cả đã được trả lại cho anh, điều duy nhất họ yêu cầu là anh phải cố gắng không trở thành mối đe dọa cho chính mình hoặc bất kỳ ai khác.Sau đó, mọi chuyện lại như cũ và anh ấy lại vào tù vì tội tuyên truyền chống Liên Xô. Nhưng anh ấy đã được thả ngay sau đó, mùa xuân năm 1961 vì lý do sức khỏe kém. Anh bị loét dạ dày và suy nhược hoàn toàn. Vasily chưa bao giờ ăn nhiều, chỉ lấp đầy dạ dày bằng rượu. Lần này anh được thả ra với những điều kiện nghiêm ngặt hơn. Anh được phép sống ở bất cứ nơi nào anh thích ngoại trừ Moscow và Gruzia. Vì một lý do nào đó, anh đã chọn đến Kazan. Anh được cấp một căn hộ ở Kazan và nhận được lương hưu của một thiếu tướng. Nhưng anh đã bị hủy hoại cả về thể chất lẫn tinh thần. Anh qua đời vào ngày 19 tháng 3 năm 1962. Anh đã uống rượu rất nhiều với một số người Gruzia và không bao giờ tỉnh lại. Anh chỉ mới bốn mươi mốt tuổi. Gần như cả thành phố Kazan tới tiễn đưa anh. Nghĩa trang ở Kazan hiện có ngôi mộ của Tướng V. I. Dzhugashvili và một dòng chữ khắc đầy kiêu ngạo: "Tặng cho người duy nhất."]
Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store