ZingTruyen.Store

Dm Bong Hong Nhan Nam Ay

Sử sách ghi lại bao nhiêu lần đất nước thịnh suy, bao nhiêu biến động bằng ngòi bút xuân thu lạnh giá. Hàng nghìn, hàng vạn mạng người bị xoay vần cùng thời thế, rốt cuộc chỉ được lưu lại trong vệt mực vô danh trên trang giấy. Triều đại Quang Minh từ buổi bình minh đã vô vàn sóng gió. Nhờ triều thần phế Ưu Đàm Đế mà lập lên, Quang Minh Đế sớm bị rơi vào lòng chảo lửa của các phe cánh hoàng cung.

Thái Trí Sơn dấy lên vài cuộc nổi loạn nhỏ rải rác quanh cách châu đông bắc hòng tung hỏa mù với âm mưu đánh vào kinh đô, nhưng kế hoạch sớm bị triều đình phát hiện. Quang Minh Đế sai võ tướng Lâm Hảo điều binh đến Sơn Khởi làm cứ điểm trọng yếu, đồng thời với sự trợ giúp của Hoa Đắc Trung khai phá và kiểm soát đường mòn Hoạt Sơn. Quân lương, viện binh nhờ tuyến đường này mà được vận chuyển suôn sẻ giữa bốn châu đông bắc.

Thái Trí Sơn không vì thế mà ngưng làm mưa làm gió. Quân hắn vây Bàn Thành suốt những tháng mùa khô, khiến dân chúng lầm than. Lâm Hảo bất chấp xuất binh đánh Bàn Thành, một hành động khiến quần thần trong triều tranh cãi. Quang Minh Đế muốn giảng hòa, tuy chiếm được Bàn Thành vẫn xử tội Lâm Hảo. Không ngờ điều này lại khiến hoàng cung chia rẽ nhiều hơn, kết cục là Đinh Liệt cùng phần lớn quan lại ly khai khỏi thế lực Quang Minh Đế, dấy quân chiếm cứ hai châu phía tây.

Trong cảnh rối ren, ngai vương của Quang Minh Đế lung lay dữ dội, sớm muộn gì cũng có một kẻ đứng lên bứt dây động rừng. Ít ai ngờ được kẻ đó lại là Thẩm thái hậu. Sau khi Ưu Đàm Đế bị hành hình, Thẩm Thái hậu từ bỏ rèm châu trở về quê nhà, vì là cô của Quang Minh Đế nên chỉ bị phế truất thành quận chúa Hoang Châu. Không ngờ bà bí mật biên thư tụ hội ba mươi quan thần trong triều, tố cáo Trương Hữu và Khu ma sứ, tức cánh tay phải của Quang Minh Đế chuyên quyền. Quang Minh Đế hứng chịu đủ mọi tai tiếng nhưng vẫn không dám làm gì Thẩm thái hậu, bèn biên thư cầu cứu lục bộ, đặc biệt ráo riết gọi Hoa Đắc Trung sung quân đến kinh đô.

Hoa Đắc Trung không trả lời lệnh này.

Hai tháng trôi qua trong dầu sôi lửa bỏng. Thẩm Thái hậu ở Hoang Châu thế lực lớn dần, Hoa Đắc Trung mượn danh Quang Minh Đế khống chế bốn châu đông bắc nhưng tin tức về kinh thành lại nhỏ giọt, Khu ma sứ bắt đầu mất kiên nhẫn. Bất chấp sự van nài của Quang Minh Đế, họ sai người khích chiến Hoang Châu, bắt giam Thẩm thái hậu. Sau đêm, thái hậu qua đời trong ngục.

Giờ phút này, tứ phương khởi binh.

Đinh Liệt phía tây, Thái Trí Sơn vùng trung du đã không thần phục từ lâu, nhưng mặc dù có kẻ nghi ngờ hành tung từ trước, trung ương vẫn chẳng lường được sự hùng mạnh của Hoa Đắc Trung ở đông bắc. Nắm trong tay phần lớn cấm quân, mượn binh của Sa Tây, lại được sự hậu thuẫn của một binh đoàn bí ẩn, tiếng tăm của hắn lan như lửa rừng mùa khô.

Thế giằng co dai dẳng năm năm. Trong năm năm đó, Hoa Đắc Trung đánh bại Thái Trí Sơn, dần dần gói bàn tay mình quanh kinh đô. Quang Minh Đế ngồi trên ngai vàng lòng như lửa đốt, chỉ biết trông cậy vào số trung thần ít ỏi của mình, trong đó có Vũ Triết Đình đã được cất nhắc làm Thái sư. Khi Hoa Đắc Trung dẫn binh tới cửa, Vũ Triết Đình ép Quang Minh Đế nhường ngôi cho hắn.

Hoa Đắc Trung xưng vương trong tình thế mập mờ, nhiều kẻ không phục. Nhưng trong mắt hiền giả, vương triều họ Thái thế là diệt vong, cho dù người đứng trên ngai kia là ai đi nữa cũng không thể gầy dựng lại thanh danh cho dòng tộc này. Như Đinh Liệt lập Thái Viễn, khát vọng khôi phục triều đại nhà Thái, kết cục vẫn bị họ Hoa đánh bại.

Một năm sau khi Hoa Đắc Trung lên ngôi, Vũ Triết Đình lại ép hắn nhường ngôi, lần này cho con trai Vũ Triết Khởi, lập nên triều đại nhà Vũ. Sử sách gọi năm tại vị của họ Hoa là Kiến Văn, Hoa Đắc Trung tự xưng Hải Sơn Vương trong văn tự, nhưng với bá tánh đương thời, có lẽ hắn không bao giờ muốn làm vua.

Có kẻ bảo, thực chất Hoa Đắc Trung vốn chẳng tham vọng đứng đầu thiên hạ, và việc nhường ngôi này đã được sắp đặt từ trước. Đừng quên, hắn từng cấu kết với Vũ gia lật đổ Quang Minh Đế.

Người đời còn kể lại, sở dĩ Hoa Đắc Trung tự thấy mình không xứng đáng với ngôi vua là vì để đạt được thành tích vẻ vang này, hắn không những dựa dẫm vào ngoại thích là đạo quân Sa Tây mà còn mượn thần lực của các tộc hồ ly phía nam. Người đứng đầu, nghe nói, là một hồ ly hùng mạnh nhưng tiếng tăm mờ mịt. Lúc Hoa Đắc Trung đánh vào kinh đô, không ít kẻ nhìn thấy bóng một người khôi giáp đứng trên đỉnh tháp Vấn Thiên, tay cầm long bào sờn cũ của Ưu Đàm Đế, tay kia giơ cao bảo kiếm, khí lực tràn trề, hào quang ánh tím rạng ngời. Nhiều quan lại trong triều quả quyết hắn là một quan tứ phẩm thuộc Lễ bộ tên Bạch Thiên Cơ, có lời đồn cũng là sủng thần của Ưu Đàm Đế. Nhưng ngoại trừ cái vai trò không mấy vẻ vang đó ra, hắn không có thành tích gì nổi bật.

Sau khi Hoa Đắc Trung lên ngôi, dư đảng hồ tộc cũng biến đâu mất biệt. Cái tên Bạch Thiên Cơ chỉ được nhắc thêm một lần nữa trong miệng lưỡi dân gian, bên cạnh cái tên Đào Tuyết Kỷ nay đã được chính thư minh oan. Chính thư ghi lại, Đào Tuyết Kỷ thực chất qua đời trước khi được phong quý phi, còn kẻ đội lốt nàng là một cung nữ vô danh. Không khó để vài người nghi ngờ "cung nữ" này chính là hồ ly Bạch Thiên Cơ, nhưng với những người khác thì đây lại là tin đồn thất thiệt. Có điều liệu chi tiết này còn ý nghĩa gì nữa hay không? Bạch Thiên Cơ chỉ là một hình bóng mờ nhạt tô điểm thêm cho câu chuyện hùng tráng xoay quanh Hoa Đắc Trung, một kẻ lắm người hận, cũng lắm người kính.

Có điều, câu chuyện về họ Hoa cũng sớm đứt đoạn. Sau khi bị phế, Hoa Đắc Trung trút bỏ mọi danh hiệu, lui về ở ẩn. Vài sách bảo hắn an cư tại Hoang Châu, uống rượu đề thơ, không còn quan tâm đến thế sự nữa.

Cuộc chiến loạn kéo dài ngót nghét mười ba năm, kết thúc vào thời khắc Vũ Triết Khởi khoác long bào, nhận quyền trượng như ý, xưng làm Tân Khởi Đế. Từ dạo đó, thiên hạ dần dần bình ổn.

Một chi tiết mà ít được chú ý đến bởi những sử gia đào sâu vào cuộc nội loạn, chính là việc trong những năm đầu khói lửa, các châu ở cực bắc tạm thời được yên ổn nhờ có kỵ binh Bắc Thổ bảo vệ. Triều Dương, Thiển Dương là cứ điểm giao thương, cư dân ở đây tuy thiếu thốn nhưng không đến nỗi bị chiến tranh giẫm nát. Nhưng khi Bàn Thành bị vây, nạn dân từ phương nam đổ lên từng chặp gây ra nhiều mùa đói kém, mối liên kết giữa họ và trung nguyên lơi dần. Thừa dịp, Bắc Thổ thu phục hai châu cực bắc, phải mấy năm sau khi Tân Khởi Đế lên ngôi mới nhượng trở lại.

Kể từ lúc Ưu Đàm Đế bỏ mạng ở ải Thác Quan, thấm thoát hai mươi năm đã trôi qua.

Một thiếu nữ mười bốn, mười lăm tuổi mặc áo đạo đồng đi thong dong trên mặt đất đầy tuyết. Đang giữa tháng giêng, Triều Dương trắng xóa, từ cửa sổ những dãy nhà thưa thớt ánh lên màu đỏ hồng của bếp sưởi, các sạp bán áo lông thú, dầu, nhang đèn mở hàng từ sớm. Thiếu nữ vừa đi vừa nhẩn nha que kẹo hồ lô trên tay, mắt thơ thẩn nhìn về phía chân trời xanh xám đằng sau những hàng cây trụi lá xa xa. Cuối cùng, cô bé dừng chân trước một tiền trang, đẩy cửa vào.

Độ nửa giờ sau, cư dân Triều Dương lại thấy đạo đồng nọ nhởn nhơ đi về hướng ngược lại. Nó ghé mua một vòng ngọc đeo cổ từ một hàng đồ thủ công Bắc Thổ, rồi lại mua thêm một cân dầu. Nó đi, đi mãi, đến ngoại ô Triều Dương, trong thoáng chốc hai bên đường đã thưa đi nhà cửa, chỉ còn những hàng dương liễu lòa xòa ven các ao nước lạnh, xen kẽ những bụi trúc xanh vàng. Cuối cùng, nó dừng chân ở cổng nhật nguyệt dẫn vào một đạo quán nho nhỏ nằm lọt giữa một hoa viên thanh tĩnh. Đạo quán này vốn là của một lão chân nhân hiệu Trí Minh Tử, sau làn sóng nạn dân có nhận thêm vài đệ tử.

"Sư phụ, con về rồi."

Đáp lời tiếng gọi của nó là một đạo trưởng cao lớn, tuổi gần ngũ tuần, tay vẫn cầm bút. Cư dân Triều Dương đều biết tên y là Tần Nam Vinh, ngụ tại đây kể từ thời chiến loạn.

Đạo đồng thiếu nữ tên Thủy Tiên chắp tay trước tượng Huyền Thiên xá vài cái, rồi đến trước cửa dẫn vào chính thất. Nó ném que kẹo không xuống chân, rồi trao tay Tần Nam Vinh bình dầu lẫn tờ ngân phiếu.

"Trời lạnh, con đừng có ở ngoài lâu quá."

Thủy Tiên vuốt tuyết khỏi tóc, nói:

"Con muốn thăm phố phường Triều Dương lần cuối trước khi đi."

"Con thăm 'lần cuối' đến nay là lần thứ mười lăm rồi. Nay mai chúng ta còn có thể trở lại mà."

Thủy Tiên liếm môi:

"Có thể không đồng nghĩa với chắc chắn. Sư phụ bảo nếu không tìm thấy nơi sư phụ muốn tìm thì sẽ quay về, nhưng rủi tìm được thì sao?"

Tần Nam Vinh cười thông cảm:

"Giống như Triều Dương là nhà con, Sơn Khởi cũng xem như là nhà của ta, từ lâu ta đã thề rằng sẽ trở lại đó. Con đừng lo, nơi ấy tiên phong lạc cảnh, thích hợp với việc tu tập hơn cả ở đây."

Thủy Tiên không đáp, chỉ bước vào thư phòng soạn tiếp kinh sách. Tần Nam Vinh hiểu tính nó, nó không thích sự thay đổi. Sinh ra và lớn lên ở Triều Dương, con bé không cần, cũng chẳng hứng thú về nơi nào khác. Lúc Tần Nam Vinh tìm thấy nó, nó đang ngồi co ro ngoài sạp của y. Năm đó đang đỉnh cao nạn đói, y và nhiều hộ dân khác đành phải lên núi bắn chim, bẫy thú rừng để kiếm miếng ăn. Tần Nam Vinh cũng không còn gạo, phải dùng bột pha cháo, một con chim nhỏ xẻ làm bốn phân phát cho mỗi người. Thấy con bé neo đơn côi cút, y đem nó về đạo quán, hỏi ra thì biết cha nó là thương nhân người Bắc Thổ sống ở Triều Dương đã lâu. Sau một trận thương hàn, nó trở thành đứa trẻ mồ côi lay lắt trên đường. Triều Dương mấy năm này đông đúc nạn dân, con bé như cá ra khỏi nước, ngày ngày quẩn quanh ăn xin ở các tụ điểm phát lương.

Phải mất mấy tháng trời Thủy Tiên mới quen dần với cuộc sống trong đạo quán. Nhưng thế là khá hơn Tần Nam Vinh rồi.

Tần Nam Vinh nhìn quanh hoa viên một lượt, tiễn biệt khung cảnh mùa đông lẫn cái đẹp riêng biệt của nó một thể. Mươi ngày qua không hề có lấy ánh nắng mặt trời, ngoại trừ những loài tùng bách vẫn xum xuê, cây cối quanh hoa viên cũng quấn mình trong giấc ngủ đông dài. Ở giữa vườn là hai cây đào Tần Nam Vinh dốc công o bế, chăm sóc nhất hiện giờ cũng trụi lá, có điều mới hôm qua y nghe Linh Chi kêu ầm rằng có mấy búp non vừa trổ.

Mùa xuân sắp tới, chắc Tần Nam Vinh chắc không có dịp nhìn thấy chúng nở hoa. Những năm vừa qua dẫu đói khổ thế nào, y vẫn cố công đảm bảo rằng mấy cành đào vẫn lên tươi tốt, mơn mởn một góc trang viên, xoa dịu lòng dân đen tứ xứ.

Thật là lạ, với một cuộc đời bèo dạt như y, đậu nơi nào nơi đó trở thành nhà, mỗi lần đi đều cảm thấy buồn da diết.

May thay, chia xa Triều Dương không làm Tần Nam Vinh tan nát từng đoạn ruột như ngày trước rời Sơn Khởi. Bão lũ đã qua, trời quang mây tạnh, con dân viễn xứ có thể tự do đi về khắp các nẻo đường đất nước. Mấy ngày qua y thăm viếng những người hàng xóm cũ, không phải ai cũng yên ổn qua thời loạn thế. Nhiều bóng dáng quen thuộc đã không còn trên trần thế vì đói, vì rét hay bệnh tật. Lắm người sớm dời đi nơi khác, như nàng bán kẹo đã theo gia đình vượt núi lên Bắc Thổ từ mười năm trước. Nhưng đôi lúc Tần Nam Vinh gặp lại những gương mặt từng sẻ chia một góc núi với y. Giống như gia đình nàng bán thịt dạo ấy giờ mở hàng vải từ căn nhà nhỏ bé ven thành, mỗi lần ghé thăm lại thấy lũ con chạy giỡn rần rần, lòng y ấm áp như được mặt trời sưởi. Thậm chí y còn hay uống rượu cùng vài tiều phu quen, cái gã năm nào làm y bực bội giờ cũng đã yên bề gia thất, khổ một nỗi cứ gặp y là đăm đăm hỏi khi nào lấy vợ. Y phải nhắc gã bao nhiêu lần y là người tu hành rồi, mấy chuyện đó là không thể.

Tần Nam Vinh quay vào sau hậu viện, liền bắt gặp Trí Minh Tử đang ngồi đánh cờ, uống trà nóng với Linh Chi. Y ái ngại bảo:

"Bẩm sư phụ..."

Trí Minh Tử ngừng tay, râu tóc bạc phơ rung động theo ngữ điệu ôn hòa:

"Lại áy náy gì nữa rồi?"

"Đồ nhi đi rồi, không thể không lo lắng cho sư phụ..."

Trí Minh Tử cười xòa:

"Chừng tháng sau là mấy sư huynh sư đệ lại trở về ấy mà. Vả lại, ta thích gian nhà yên tĩnh thế này hơn." Rồi ông hạ mắt xuống. "Ước nguyện cả đời, muốn làm thì phải làm thôi. Thế nào? Đã sắm sửa xe thồ đàng hoàng chưa?"

Tần Nam Vinh lí nhí:

"Thưa, xe đã có, chỉ cần tra dầu, kiếm ngựa là đi được."

Triều Dương đạo quán không phải là lúc nào cũng cô tịch. Lúc Tần Nam Vinh gia nhập, đã có chừng bảy đạo nhân sống tại đây, thêm vài đứa đạo đồng lóc nhóc là trẻ mồ côi. Nhưng tháng qua các sư huynh sư đệ nghe nói trên Cát Lộc Phong có hội tụ linh khí, bèn lên đó tu tập. Tần Nam Vinh vì phải sửa soạn về Sơn Khởi nên không theo, có điều y đi rồi, đạo quán chỉ còn lại Trí Minh Tử chân nhân và lũ nhóc nhỏ tuổi.

Nhớ lại lúc y mới đến Triều Dương, lạ nước lạ cái, kiếm được một gian nhà cùng vài người hàng xóm túm tụm sống. Y lập một tiệm cơm nho nhỏ, làm ăn cũng khấm khá, cho đến khi chiến tranh phương nam trở nên dữ dội, Triều Dương bị tách biệt khỏi phần còn lại của trung nguyên, nạn dân lại ùn ùn kéo tới. Lương thực hiếm hoi, các chủ quán thôi buôn bán, giờ phụ giúp quan công nấu cháo, phát vải cho dân. Tần Nam Vinh hiến chỗ ở của mình, đến trú tại đạo quán của Trí Minh Tử.

Trí Minh Tử chân nhân từ bi bác ái, không ngại xắn tay giúp đỡ người hoạn nạn. Vào những mùa rét đậm, hoa viên ông la liệt lều chõng, bếp ăn làm việc hết công suất. Tần Nam Vinh bận đến không thở ra hơi, một ngày trôi qua trong chộn rộn hoảng loạn, vừa lo hết lương thực vừa sợ không còn củi lửa sưởi ấm cho bao nhiêu nhân mạng vòi või ngoài kia. Thế nhưng đêm xuống, đắp chăn nghe tiếng quạ phương xa, y ngẫm nghĩ về khoảng thời gian vô vi ngày trước, trong tâm lắng lại.

Tần Nam Vinh tìm đến đạo học âu cũng chỉ là một cách để y khuây khỏa giữa bao lầm than đói khổ. Sau đó, tình hình khấm khá lên, các nạn dân từ từ dọn ra khỏi đạo quán, y vẫn ở lại, chính thức bái Trí Minh Tử làm sư phụ.

Trí Minh Tử xuống bếp pha thêm ấm trà, ngoắt bảo Tần Nam Vinh đánh cờ thay mình. Tần Nam Vinh ngồi xuống đối diện với Linh Chi.

"Sư phụ đừng buồn, mỗi mùa xuân chúng ta trở về đây." Linh Chi với tới lắc lắc nắm tay Tần Nam Vinh an ủi. Rồi nó ngẩn ra. "Ấy, nhưng sư phụ nói Sơn Khởi đẹp nhất vào mùa xuân. Thôi vậy chúng ta về vào mùa hạ."

Tần Nam Vinh tủm tỉm:

"Thế nhỡ ta nói bốn mùa trên Sơn Khởi đều đẹp thì sao?"

Linh Chi tỉnh rụi:

"Thì mỗi mùa chúng ta về đây phân nửa, phân nửa ở Sơn Khởi."

Tần Nam Vinh phì cười. Linh Chi cũng cười, theo sau là vài tiếng ho húng hắng khiến nó nuốt vội nuốt vàng một ngụm trà thảo mộc. Tần Nam Vinh vuốt lưng cho nó, lo sợ bệnh nó trở nặng. Linh Chi không phải người Triều Dương. Nó theo đoàn nạn dân từ Duyện Tây xa xôi lên đây, cha mẹ qua đời trên đường đi vì đói. Trí Minh Tử cho nó cư ngụ, vì là người phương nam, sức khỏe lại không tốt nên nó cảm cúm liên miên. Linh Chi được Tần Nam Vinh chăm sóc, sau chiến tranh ở luôn tại đạo quán, bái y làm sư phụ luôn.

Thủy Tiên xếp sách xong bước ngang qua, đập vai Linh Chi bảo:

"Sư muội có sức mà đi đi về về mãi không đấy?"

Linh Chi giãy đùng đùng:

"Sư muội cái gì? Em là sư tỷ của chị, nghe chưa? Sư tỷ!"

"Tí tuổi mà còn đòi làm sư tỷ, rốt cuộc xưng hô lộn xộn hết ráo, không được!"

Vốn Linh Chi bái sư trước Thủy Tiên – hay đúng hơn, Thủy Tiên vì thấy Linh Chi bái sư, không muốn thua kém nên học đòi theo – nhưng lại nhỏ hơn đến ba tuổi, nên hai đứa từ đó đến giờ cứ léo nhéo cãi nhau miết. Lần nào cũng thế, Tần Nam Vinh luôn phải can gián:

"Sư gì cũng được, nhưng Sơn Khởi khí hậu ôn hòa, Linh Chi đến đó ắt sức khỏe sẽ khấm khá hơn."

Linh Chi cười toe đầy đắc thắng, còn Thủy Tiên xì một tiếng:

"Sức khỏe của em chỉ là chuyện phụ thôi. Cái chính là sư phụ muốn tìm ý trung nhân."

Linh Chi ngẩn ra:

"Ý trung nhân là gì?"

"Là... là người quan trọng nhất đó." Thủy Tiên khúc khích, trong khi Tần Nam Vinh ngồi sượng ngắt. "Người muốn lấy làm vợ đó!"

"Sư phụ nói với chị vậy à?"

"Không có mà." Tần Nam Vinh cười khổ. "Ta chỉ kể về một người mà ta mong chờ thôi, đâu ai nói gì về vợ chồng."

"Nhưng vẫn là chuyện kể riêng cho người lớn như sư tỷ đây." Thủy Tiên vỗ ngực. "Con nít con nôi như em còn lâu mới được nghe."

Linh Chi liền hướng cặp mắt tròn xoe về phía Tần Nam Vinh:

"Sư phụ, có phải người sư phụ mong chờ hiện đang ở Sơn Khởi không?"

"Lúc ta rời đi, người ấy vẫn còn ở đó, nhưng giờ không biết được nữa."

"Sao con không nghe sư phụ kể về người đó? Sư phụ chỉ kể cho Thủy Tiên."

Tần Nam Vinh xoa đầu con bé:

"Chuyện chẳng có gì để kể, Thủy Tiên cũng chỉ biết bấy nhiêu mà thôi."

Thủy Tiên long lanh mắt:

"Nhưng qua cái cách sư phụ nói về người đó, con biết sư phụ thương người ta lắm. Sư phụ kể thêm đi, con muốn nghe."

Tần Nam Vinh nghe không gian trầm xuống. Y dõi mắt ra ngoài sân, nơi hai cây đào đang đứng:

"Đã gần hai mươi năm trôi qua rồi. Lúc hai bên từ giã, con còn chưa ra đời, đến nay ngay cả những kỷ niệm sâu đậm nhất sợ cũng sớm phai nhạt."

Thấy sắc mặt sư phụ đượm buồn, Thủy Tiên cũng ủ rũ theo. Nó khoanh tay chống lên bàn:

"Chẳng lẽ người ta không thư tín gì cho sư phụ sao?"

Tần Nam Vinh chớp mắt. Mấy tháng đầu ở Triều Dương, hắn còn gạ binh sĩ đưa thư qua lại, nhưng khi chiến sự sôi sục, bên kia lập tức bặt vô âm tín, báo hại Tần Nam Vinh đợi mòn mỏi. Rồi cấm quân rút dần khỏi Triều Dương khi Bắc Thổ lấn quyền, thế là đứt mối liên lạc. Thế nhưng Tần Nam Vinh vẫn nhớ như in lời hứa năm đó.

"Nếu còn yêu, chờ ta ở ngay vùng này, còn nếu ngươi không đến, đích thân ta sẽ tìm ngươi."

Lạc Hương đã không tìm y.

Tần Nam Vinh làm theo lời hắn, trong tăm tối tự tìm cho mình một lẽ sống. Y không quay lưng với trần thế nữa, tuy địa vị chẳng còn gì nhưng vẫn tiếp tay cứu tế nạn dân bằng tất cả sức phàm vơ vét được. Rồi khi chiến tranh đi qua, y an nhiên quay trở lại con đường xuất thế, với mơ ước xa vời là khi đắc đạo rồi, có thể xứng vai với hắn. Y làm tất cả vì chính y, cũng là vì hắn. Nhưng vật đổi sao dời, liệu hắn còn nhớ cái con người đang mòn mỏi đợi hắn ở phương bắc lạnh giá này hay không?

Tình nghĩa sau bao nhiêu năm cách trở giờ chỉ còn dư vị. Xúc cảm dịu ngọt năm xưa bị phong ba bụi trần thổi cho bay màu. Tần Nam Vinh đôi lúc tưởng như mình không còn nhớ, còn yêu người kia nữa, trong lòng chỉ ôm ghì kỷ niệm mà thôi. Tuy thế, y giờ đã cao tuổi, râu tóc đã điểm bạc, vậy mà vào những đêm cô tịch, nghĩ đến viễn cảnh Lạc Hương bỏ thây trận mạc, vẫn nhận ra mình còn khóc được.

Thế nhưng Tần Nam Vinh tin Lạc Hương. Trong nỗi tuyệt vọng ngày một lớn dần qua mỗi mùa én đưa thoi, vẫn còn niềm tin vững như bàn thạch. Hôm nay y thu xếp trở về Sơn Khởi, coi như làm trọn lời hứa, nếu nhỡ không gặp Lạc Hương, cuộc đời này cũng không còn gì hối tiếc nữa.

Thủy Tiên mãi mà không nghe Tần Nam Vinh hỏi, biết đã động vào nỗi buồn thiên cổ của sư phụ, bèn ngồi thẫn thờ nghịch mấy con cờ. Linh Chi ngây thơ hơn, không rõ chuyện gì đang xảy ra, nhưng nó chẳng dám hỏi.

Chỉ đến khi Tần Nam Vinh hắng giọng nói:

"Các con đừng lo. Đến đó an vị nhàn rỗi rồi, sư phụ sẽ kể tất cả cho nghe."

Cơ mặt bọn trẻ mới giãn ra.

Sáng ngày hôm sau, Tần Nam Vinh gọi hai đứa trẻ dậy sớm xuất hành. Đứng trước gương khoác đạo bào, bất chợt y muốn bật cười. Y hiện giờ ốm hơn hai mươi năm trước nhiều, tóc điểm bạc, mắt đã hằn vết chân chim, chỉ sợ Lạc Hương không nhận ra. Về phía y, chẳng hiểu sau y tin rằng mình sẽ dễ dàng nhận mặt Lạc Hương, dù hắn thay đổi thế nào đi nữa. Hồ ly mấy trăm tuổi liệu có già đi hay không?

Xe thồ chở đầy các vật dụng nhu yếu, không còn chỗ cho người ngồi. Đây là xe thồ hàng dân dã, so với cỗ xe của Binh bộ năm xưa chỉ rộng bằng phân nửa, Tần Nam Vinh đành phải cưỡi ngựa suốt chuyến đi. Linh Chi ngồi đằng trước y, Thủy Tiên một mình cưỡi con còn lại.

Họ men theo đường núi, đi được bảy ngày, tuyết đã ngớt rơi, ánh mặt trời bắt đầu le lói sau mây. Tần Nam Vinh chỉ mang máng nhớ ra khung cảnh này, cũng chẳng biết mình có nhớ đúng hay không. Y xuôi ngược nam bắc bao bận, lần nào cũng men theo rừng núi, hai bên đường bao giờ cũng dày cây trắng đá, khó mà chỉ rõ ký ức trong đầu liệu là phong cảnh từ hồi rời Sơn Khởi đến Triều Dương, hay từ Bá Giang đến Sơn Khởi.

Ngựa vừa đi, gặp thôn xóm phải dừng lại cho Linh Chi nghỉ mệt, thế nên mất nhiều thời gian hơn Tần Nam Vinh dự tính. Ngót nghét nửa tháng, họ mới tới chân Hoạt Sơn.

Trước Tần Nam Vinh chỉ từng đi qua đoạn đường này có một lần, và lần đó y bất tỉnh trong xe, căn bản là chẳng biết gì. Thế nhưng nhìn thấy màu lục bảo của những cây thường xanh nhan nhản viền lối đi, đất dưới chân bắt đầu lên cỏ là tim y đập rộn. Dù là giữa đông, mũi y như vẫn nghe được mùi hoa rừng phảng phất, hòa vào hương thanh khiết của suối băng tan trên thượng nguồn. Mặt trời chiếu hào quang sáng rực, trông như tách làm ba ở đường chân trời lúc này đang dần dày cây. Đến đây là sắp sửa vào rừng, nhà cửa, thôn xóm không có, Tần Nam Vinh hơi sợ là Linh Chi không thoải mái, nhưng con bé cứ mải mê thu mỹ cảnh vào tầm mắt, chốc chốc lại bắt y leo xuống ngựa nhặt vài nón thông cho nó chơi. Thủy Tiên khó xiêu lòng hơn Linh Chi, nhưng màu xanh của cây cối giữa đông cũng làm nó ngẩn ngơ. Trên môi nó lẩm nhẩm câu hát:

"Dường như đêm gió xuân về lại. Ngàn vạn hoa lê nở rộn ràng. [1]"

Rừng núi Sơn Khởi không có lê, chỉ có những loài mẫu đơn dại còn say ngủ, những bụi trà hoa nhú mầm hây hẩy. Nhưng ở Trùng Dương lê mọc thành hàng trắng xóa mỗi độ xuân, tuyết chồng lên tuyết, tinh tươm khiết lạc. Cách nhau mấy dặm đường, cảnh trí hai nơi cũng khác biệt. Tần Nam Vinh tự nhiên thấy áy náy khi bắt gặp trong mình nỗi quyến luyến đặt nặng bên núi non vùng này. Trùng Dương trong ký ức y mang màu trắng bạch, dẫu đã cưu mang y qua những năm tháng khổ cực vẫn khiến y đồng hóa sắc độ ấy với sự giá rét mỗi mùa đông thiếu thốn. Trái lại, Sơn Khởi bốn mùa đều tưng bừng ngũ sắc, bất kể nỗi cô đơn trống vắng của y mà cứ thế sinh sôi. Nhưng rồi cái cô đơn đó được đánh tan bởi sự xuất hiện của ai kia, ba năm vòi või không bằng một mùa xuân rực rỡ.

Tần Nam Vinh không hình dung được màu áo của Lạc Hương giữa đất trời trắng nhờ phương bắc trông ra thế nào. Chỉ có Sơn Khởi là hợp nhất với hắn.

Ngày sau, xe đã tới thung lũng sau nhà Tần Nam Vinh. Thiên nhiên không có gì khác mấy, chỉ trông xác xơ hơn đôi chút, những khoảnh cỏ trống, gốc cây mục lốm đốm mộc nhĩ năm xưa vẫn còn. Ngày đó y từng dẫn Lạc Hương loanh quanh vùng này, chẳng có gì mấy để làm, nhưng trong lòng vẫn tràn đầy một niềm vui êm ả.

Chợt Thủy Tiên kêu lên:

"Sư phụ, người có nhận thấy gì không?"

Nghe con bé nói, Tần Nam Vinh mới giật mình chú ý vào ngũ quan của mình, và ngay lập tức y phát hiện trong bầu không khí có chút gì khác lạ. Chút gì đó huyễn hoặc, hư ảo, như thể y bất thần lạc chân vào mộng cảnh. Nhưng y biết cái cảm giác phủ tạng y run lên vì hồi hộp kia là thật.

Giờ y mới nhớ ra, lúc y bị ném lên xe chở đi, đường mòn Hoạt Sơn đã bị đánh úp, mười mấy năm dài sau đó lại được khai thông, trở thành tuyến đường huyết mạch. Nhìn bằng mắt Tần Nam Vinh có thể chỉ điểm ra những chỗ còn dấu vết đất cỏ bị vó ngựa giày xéo, những mô đất quỷ dị, những thân gỗ gãy ngang. Nhưng ngoài ra, y thấy được các loài cây cỏ đang trên đà hồi sinh, cái mới xen lẫn cái cũ. Trong y ánh lên một câu hỏi:

Sau khi chiến tranh kết thúc rồi, đường mòn Hoạt Sơn lẽ ra phải được khai phá, tại sao nơi này vẫn hoang vu cô tịch, vẫn không một bóng người như vậy?

Càng nghĩ, y càng thấy nỗi bất an lạ lùng trào dâng khắp cơ thể. Đến khi Linh Chi vùng la:

"Sư phụ xem kìa!"

Và chỉ tay về phía một hốc cây, Tần Nam Vinh bắt gặp một cái đuôi cáo lẩn vào trong đó.

Bàn tay y quấn chặt cương ngựa. Vùng rừng này không thiếu cáo, nhưng linh cảm của y mách bảo sự xuất hiện thình lình của chúng thật bất thường. Ngay giờ phút này đây, từng chặng đường là bước đếm tới câu trả lời quyết định, từng giây từng khắc đều cô đọng trên da thịt y. Nắng mùa đông vẫn chiếu rọi, soi rõ ao nước bên thân cây liễu dại quấn tử đằng. Ao của Lạc Hương. Cái ao sinh ra, không phải để y ngốc nghết đổ cá vào nuôi, mà để Lạc Hương tắm.

Rồi Tần Nam Vinh ngoảnh đầu, đập vào mắt y là những cành nhánh trơ trọi, khẳng khiu, lốm đốm búp non xanh.

Ba cây đào năm xưa vẫn còn.

Chúng vẫn còn, xung quanh mọc thêm độ mười cây thấp nữa. Hiện giờ tuy chúng đều trơ trọi, nhưng y có thể hình dung khi gió xuân đến, toàn bộ vùng này sẽ rực lên màu phớt hồng tiêu diêu.

Chễm chệ đằng sau hàng đào là ngôi nhà thân thuộc năm xưa.

Có thứ gì đó vỡ òa trong Tần Nam Vinh. Y không thể nào tin được vạn vật nơi đây ít nhiều vẫn nguyên vẹn. Kỷ niệm ùa về, ào ạt như gió bão giữa thu, Tần Nam Vinh nghe theo tiếng gọi trong tâm tưởng, bảo Linh Chi xuống ngựa, chính mình cũng leo xuống theo, thơ thẩn bước lại. Ngôi nhà trông mới, có lẽ vách đã được thay không hơn sáu, bảy năm trước. Chuồng gà y xây trống hoác, xập xệ, rõ là chưa được tu sửa. Dường như chỗ này không bán quán nữa, bảng hiệu không còn, bếp núc trống trải, cả bàn ghế cũng chẳng thấy đâu. Cửa đóng then cài, Tần Nam Vinh không dám xông bừa vào, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để đẩy niềm hy vọng của y lên tầm cao nhất. Có điều, y cũng không dám loại đi khả năng nơi này đã bị kẻ nào khác mua lại.

Lạc Hương đâu rồi?

Tần Nam Vinh ngoảnh nhìn bốn phía. Đường mòn Hoạt Sơn giờ rộng gấp đôi, cỏ lún phún, sương ướt đất đỏ, thiết nghĩ ngày xưa có thời quân đi không lọt mà nực cười. Y cột ngựa vào hàng rào, vừa lúc một thanh âm trong trẻo nương gió bay đến khiến y bủn rủn tay chân.

Ngay lập tức, Tần Nam Vinh quay lại ra hiệu cho hai đứa nhỏ theo sát mình. Nhạc điệu kia xa lạ, chắc chắn y chưa nghe qua bao giờ, nhưng sự trong vắt thành thục đó, nét run rẩy thê lương đó sao mà thân thương quá đổi.

Tần Nam Vinh đuổi theo tiếng sáo lên triền dốc, mồ hôi ướt lưng, tay nắm chặt tay hai đạo đồng chẳng dám buông. Y lại bắt gặp một con cáo nữa, hai con, ba con... chui từ những bụi cây rậm rạp, tai vểnh lên, hướng rạng đông mà lúp xúp chạy. Thủy Tiên sợ hãi kêu:

"Sư phụ, nơi này có yêu khí. Người hãy coi chừng!"

Nhưng Tần Nam Vinh đã mỉm cười nhìn nó trấn an. Y men chân theo những con cáo đi ngược lên triền dốc phía đông, chẳng mấy chốc đã tới một vạt rừng thưa, nắng mai chan hòa. Lũ cáo tụ lại dừng chân bên bờ suối, một con cuộn mình lại nằm bên dưới tảng đá nơi có một nam nhân áo trắng đang ngồi.

Nước mắt Tần Nam Vinh bỗng chốc tràn mi. Nam nhân kia dáng vóc tiêu sái, tóc dài lay động trong gió, ánh bình minh chiếu lòa như vầng hào quang tiên tử. Nhìn nghiêng, Tần Nam Vinh thấy hắn dung mạo vẫn tuyệt thế, nhưng thời cuộc đã in hằn lên hắn nhiều đường nét phong sương. Hắn đưa bàn tay gầy guộc lơ đãng gãi tai con cáo, tay kia cầm ống sáo bạch ngọc đặt hờ hững trên đùi. Hồ thuật uy mãnh tỏa ra từ hắn bao phủ vùng này, như một tấm lưới kim cương khóa chặt thời gian, giữ nguyên cảnh trí không cho ngoại nhân xâm phạm vào thánh địa của hai người.

Vậy là hắn vẫn ở đây. Sau bao nhiêu năm, hắn vẫn ở đây, chờ y.

"Sư phụ, đó là..."

Linh Chi mở miệng hỏi, và Lạc Hương giật mình một cái, quay lại nhìn. Đôi mắt đẹp của hắn mở to khi nhìn thấy bóng người khoác đạo bào đang đứng bên triền dốc kia. Bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu vui khổ cuộn xoáy qua nét mặt run run, ứa ra từ đáy mắt những giọt lệ đã ngủ yên gần hai mươi năm trời dằng dặc. Bóng người nọ trông gầy ốm hơn xưa, hồng nhạn phấp phới lướt trên ngọn cỏ đẫm sương, sà vào lòng Tần Nam Vinh nơi hắn mãi mãi thuộc về.

Đến lúc này, có lẽ hai đứa trẻ cũng hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store