ZingTruyen.Store

[BH] [EDIT] QUY TỰ DAO - LỤC NGỘ

CHƯƠNG 42: BẤT KIẾN TRƯỜNG AN

KimDan-ssi

Ngày hôm sau.

Trên quan lộ, hai người một ngựa phi như bay.

Gió thu vi vu, Đường Từ không ngừng ngoái đầu lại hỏi Nhu Kha xem nàng có bị lạnh chăng, chân còn đau không, có cần nghỉ ngơi một chút không.

Lần này, còn không đợi Đường Từ quay đầu, Nhu Kha đã đưa tay ghì lấy gáy nàng, không cho động đậy: "Không lạnh, không đau, không nghỉ, mau tập trung vào đường đi."

Dọc đường đi, hai người bắt gặp không ít chúng dân lưu lạc đang rệu rã đi về hai phía ngược xuôi, thỉnh thoảng lại thấy những thi thể bị bỏ lại bên vệ đường, không một ai mảy may đoái hoài.

Đường Từ đưa tay ra sau, nắm lấy tay Nhu Kha rồi kéo nhẹ để cho nàng phải ôm chặt lấy vòng eo mình, rồi vung roi cho vó ngựa phi nước đại.
_________

Trước cổng thành Lương Châu, binh sĩ gác cổng thành đang nghiêm mặt tra hỏi, xét giấy thông hành.

Trước mặt họ là đôi nam nữ trẻ tuổi ăn vận giản dị, nom là biết hai người này là nông phu nông phụ, giày dép lấm lem bùn đất, tóc tai loà xoà, gương mặt xám xịt chẳng thể nhìn rõ dung mạo.

"Người Hồ Châu?" Binh sĩ ngó nghiêng săm soi một hồi rồi đưa ra phán đoán.

Người nông phu a ơ vài tiếng, giọng Hồ Châu khô khốc và ngọng nghịu: "Nhà cửa ruộng vườn đều bị nước lũ nhấn chìm cả rồi, vợ chồng ta phải qua đây nương nhờ họ hàng."

Nương nhờ họ hàng?

Binh sĩ nghi ngờ lời ấy, nhìn quanh một lượt, đoạn sai một binh sĩ khác ra thế chỗ gác thay rồi đích thân đi tìm chủ tướng.

Một lát sau, binh sĩ ấy trở lại, phất tay ra lệnh cho hai người mau chóng đi vào.

Đôi nông phu nông phụ biết ơn lắm, chân thành cảm tạ rồi cùng nhau bước vào thành Lương Châu.

Khi vừa rẽ vào góc phố trong thành, khóe miệng Nhu Kha vốn cứng đơ vì phải mím chặt nãy tới giờ bỗng nhiên không nhịn nổi nữa, phì cười một tiếng: "Ngươi học cái giọng Hồ Châu đó ở đâu ra vậy?"

"Lúc xếp hàng vào thành ta mới dựng tai nghe lỏm được vài câu của người ta, dù sao thì cũng đủ để gạt người rồi."

Vầng trán Nhu Kha lấm tấm mồ hôi, làm nhòe đi lớp bùn đất cố ý bôi lên mặt, bàn tay đang được Đường Từ nắm chặt lấy cũng lạnh băng. Đường Từ nhìn quanh, nháo nhác tìm khắp nơi mới thấy một quán trà, thế là vội vàng vào ngồi, nhanh chóng gọi chủ quán dâng lên một ấm trà nóng.

Ông chủ quán trà này đích thị là một người hiếu khách, không chỉ đích thân pha trà bưng lên mà còn tiện tay lấy thêm hai đĩa điểm tâm từ nhà bên cạnh để đưa cho hai người.

Ông kéo một chiếc ghế dài ra để ngồi cạnh, tò mò hỏi: "Người Hồ Châu phải không? Dân tị nạn à?"

Đường Từ đang muốn đi tìm người để hỏi thăm tình hình Lương Châu lúc này, giờ thấy vậy bèn tuỳ miệng bịa đặt vài câu, thế là khơi mở được cái miệng vốn đã không hề kín của chủ quán.

"Nương tựa họ hàng được thì còn đỡ." Ông chủ quán thở dài một tiếng, "Chứ nếu mà nghĩ rằng tới đây tìm quan phủ để kiếm một bữa cơm no thì nên quay về sớm cho khoẻ."

Đường Từ nhặt một chiếc khăn tay lên, quấn kín ấm trà nóng rồi đưa ấm cho Nhu Kha để làm lò sưởi tay, đoạn lại nhận lấy chén trà đã được Nhu Kha thổi nguội bớt, uống cạn.

Đường Từ mỉm cười với nàng rồi quay sang hỏi chủ quán: "Ông nói thế là ý gì? Dù ta đến nương nhờ nhà họ hàng nhưng giờ đang có không ít đồng hương phải lặn lội đường xa tới đây để nhận lương thực cứu trợ từ quan phủ kia mà! Hoàng đế chẳng phải vừa ban chiếu chỉ lệnh cho Lương Châu tiếp tế cho bách tính gặp nạn hay sao?"

Ông chủ quán đã có tuổi, lại goá vợ, hôm nay thấy đôi phu thê trẻ tuổi trước mắt này nói 5 câu thì 3 câu nhìn nhau liếc mắt đưa tình, chăm lo cho nhau từng li từng tí, lại đúng lúc gió thu ùa tới dấy lên cảm giác cô quạnh, lời nói ra nghe cũng có vẻ u sầu: "Người tuổi trẻ các ngươi không biết mùi đau khổ ở đời là gì rồi! Hoàng đế nói gì thì sẽ đúng là thế sao? Cái đống đồ cứu tế ấy từ kinh thành đến Lương Châu đã qua tay biết bao nhiêu tầng quan lại, cái thời buổi này quan mà làm tròn được năm phần ý chỉ của Hoàng đế đã có thể coi là quan tốt rồi đấy nhé! Huống chi là vị Bố Chính sứ tai to mặt lớn ở thành Lương Châu ta đây, trong nhà nuôi biết bao nhiêu thê thiếp, sinh ra cơ man nào là con cái, từng đứa từng đứa đứa nào cũng ngang ngược hoành hành khắp phố phường ngõ hẻm mà chẳng ai dám quản, e là còn uy phong hơn cả thế tử Lương Vương nữa ấy chứ lại..."

"Ôi, mà nói đi nói lại, cái vị Bố Chính sứ do Tiên đế phái đến ngày trước vẫn cứ là thanh liêm nhất trần." Nói xong, ông chủ quán lại tự thấy bất mãn, tiếc nuối mà lắc đầu, cười nhạo một tiếng, "Cũng phải xem vận khí mình tốt hay không, sống dưới sự cai trị của ai. Mấy câu thương dân như con, nói nghe thì hay ho lắm, thực ra Hoàng đế lo chuyện nhà mình còn chưa xong thì làm gì rảnh tâm mà lo cho bách tính?" Lời này rõ ràng là đang ám chỉ chính biến Đinh Dậu mười hai năm trước.

Thật là một vết nhơ để đời của nhà Đế vương, đứng đầu thiên hạ mà huynh đệ cốt nhục tương tàn.

Nhìn ánh mắt Đường Từ từ từ trầm lắng và trở nên u ám, Nhu Kha lặng lẽ vuốt ve mu bàn tay nàng.

Ông chủ quán chợt nhận ra mình đã lỡ lời bèn ngồi im một bên, không nói gì nữa.

Nghỉ ngơi một lúc, Đường Từ và Nhu Kha đang định trả bạc rồi đứng dậy rời đi thì lại thấy chủ quán dẫn một cô bé đầu bù tóc rối đi từ đâu tới.

Ông ta đẩy cô bé đến trước hai người, bày vẻ áy náy và khẩn khoản: "Chắc là binh sĩ gác cổng lơ là, hôm qua thế nào mà để cho con bé này lén lút lẻn vào thành rồi ngất xỉu trước cửa nhà ta, hôm nay nó tỉnh lại, hỏi ra thì biết cha mẹ hay họ hàng thân thích đều đã không còn nữa. Nhà ta giờ đã phải nuôi thêm ba bốn đứa trẻ mới cưu mang, thật sự là không còn chỗ, không nuôi nổi nữa. Cũng không dám phiền hai vị nhiều, chỉ là có ông chủ Từ, đó một người tốt bụng nhất cái thành này, giờ ông ấy đang mở kho gạo để cứu tế cho bách tính. Ta trông coi quán trà không thể đi đâu được, phiền hai vị dẫn con bé này đến đó hỏi xem ông chủ Từ có chịu nhận nuôi không? Ta nghĩ ông ấy nhất định sẽ đồng ý thôi."

Đường Từ hỏi: "Ông chủ Từ? Có phải ông ấy tên Từ Khiêm?"

Chủ quán ngẩn ra một lúc, gật đầu: "Ông chủ Từ đã nổi danh tới tận Hồ Châu rồi sao?"

Ông lại chỉ đường cho Đường Từ và Nhu Kha, cúi xuống an ủi khuyên nhủ cô bé vài câu.

Cô bé đứng yên không chịu đi, không khóc mà cũng không làm loạn, chỉ nhìn chằm chằm vào ông chủ quán.

Giữa cơn bĩ cực không có ai thân thích để nương tựa mà lại gặp được một sự giúp đỡ thì chẳng khác nào cơn hạn gặp mưa rào. Khi ấy người ta cũng dễ dàng gửi gắm cả trái tim mình cho một người xa lạ.

Đường Từ nhìn, không khỏi nhớ lại chính bản thân mình mười hai năm trước bên bờ sông Lan Thương. Nàng chới với giữa dòng, uống no bụng nước, khi sặc nước và choàng tỉnh lại trong cơn mê man thì đập vào mắt nàng đã là ánh nắng ban mai ấm áp, nghe bên tai là tiếng róc rách nước chảy. Cô bé nhìn sang trái, rồi nhìn sang phải, bốn phía vắng tanh, không một bóng người. Loạng choạng lồm cồm dậy phóng tầm mắt ra xa chỉ thấy một màu xanh biếc của sóng nước, quay lưng lại thì là những dãy núi trùng điệp kéo dài không thấy điểm cuối.

Đệ đệ, muội muội đều không còn. Phụ thân, mẫu thân, Nhu Kha, khó mà gặp lại được nữa. Yến Kinh, hoàng thành, cũng không thể trở về.

Từng hàng chim nhạn vỗ cánh bay qua đỉnh đầu, tiếng gió mùa đông buốt giá đến tàn nhẫn rít lên từng hồi, tiếng vun vút ấy lọt vào tai lại hóa thành giọng nói trầm ấm ôn tồn của phụ thân khi nàng còn bé, ngồi trong lòng ông học vỡ lòng:

"Lúc Tấn Minh đế mới vài tuổi đã được ngồi trên đầu gối Nguyên Đế[1]. Có người từ Trường An đến, Nguyên Đế mới hỏi tin tức Lạc Hạ, thế là lệ nhỏ ròng ròng. Ngẩng đầu nhìn mặt trời, đã chẳng thấy Trường An."

[1] Tấn Nguyên đế Tư Mã Duệ là vị hoàng đế m đầu triều Đông Tấn, Tấn Minh đế Tư Mã Thiệu là hoàng đế đi th hai, kế vị cha, trị vì ngắn ngủi.

Ngẩng đầu nhìn mặt trời, đã chẳng thấy Trường An...[2]

Lúc ấy Vĩnh Gia mới hiểu đau thương đến cực độ hóa ra chính là đến nước mắt cũng không thể rơi, muốn khóc cũng không thể khóc được.

"Đi theo ta." Đường Từ cúi xuống, nhẹ nhàng vỗ về đỉnh đầu cô bé.

Ước chừng theo chiều cao thì cô bé chỉ khoảng năm sáu tuổi, không phải đứa trẻ nào ở tuổi này cũng có thể kiên cường vượt qua bi kịch như Vĩnh Gia ngày trước.

Cô bé vẫn im lặng, một lát sau bỗng quỳ xuống dập đầu lạy chủ quán vài cái, rồi mới chầm chậm bước theo sau Đường Từ và Nhu Kha.

Bước chân nặng nhẹ không đồng đều, Nhu Kha không nhịn được cứ quay đầu nhìn lại suốt. Thấy cô bé đi lại có vẻ khó khăn, nàng liền vội vàng ôm cô bé vào lòng, nhíu mày hỏi khẽ: "Em nhỏ, em bị thương ở đâu thế?"

Đường Từ lắc đầu, trêu chọc: "Đấy, cổ nhân nói con hư tại mẹ chính là thế."

Vốn là lời nói vô ý nhưng Nhu Kha lại thấy nóng mặt, liếc nàng một cái: "Hồi bé ngươi tập đi ngã sưng cả hai đầu gối, chẳng phải cũng khóc lóc đòi bá mẫu bế đó sao?"

Đường Từ thì miệng cứng mà tim mềm, lời vừa dứt đã xắn ống quần cô bé lên kiểm tra tìm vết thương, vừa chăm chú vừa cười với Nhu Kha: "Người không biết đâu, ta vốn là muốn đòi người bế ta cơ, nhưng lúc ấy người chẳng quan tâm đến ta, chỉ lo trêu chọc Hàm Sơn thôi."

"Toàn nói lời hay ý đẹp để dỗ dành người khác, lúc ấy ngươi mới chừng ấy tuổi mà đã nhận ra ta là ai rồi hay sao?" Giọng Đường Từ đầy vẻ ghen tị, lại còn ghen tị cả với em ruột của mình, khiến cho Nhu Kha thấy buồn cười.

Đường Từ không ngẩng đầu, chỉ khẽ cong khóe môi: "Lúc ta đầy tháng đã chỉ cười với một mình người, người nói xem ta có nhận ra hay không?"

Nhu Kha liếc xéo nàng một cái, không đáp lời.

Mắt cá chân trái của cô bé sưng to một vòng, tháo chiếc giày vải nhỏ ra xem, mu bàn chân đã phù lên rồi.

Nhu Kha nhìn mà xót, kêu lên một tiếng, lo lắng hỏi: "Làm sao mà bị thế?"

Cô bé có vẻ không bận tâm lắm, đáp: "Đi đường không cẩn thận nên bị ngã."

Đường Từ nắm lấy cổ chân cô bé rồi nhìn lên xuống, hỏi: "Có đau lắm không? Có cần tìm y quán không?"

Cô bé lắc lắc đầu, đôi mắt to tròn nhìn thẳng vào Đường Từ, giọng nói non nớt: "Không đau đâu, ca ca, tỷ tỷ cứ lo chuyện của mình đi."

Một đứa trẻ ngoan ngoãn hiểu chuyện như thế này lại mất đi sự che chở của cha mẹ, Nhu Kha càng mềm lòng, dùng sức nhấc cô bé lên một chút, để cô bé ôm lấy cổ mình, nhìn Đường Từ rồi cười nói: "Chuyện của bọn ta lại tiện đường với chuyện của em mà."
_________

Từ Khiêm, ấy là Tả Đô Đốc phủ Ngũ Quân Đô Đốc kinh thành dưới thời Tiên đế, sau chính biến Đinh Dậu thì từ quan về quê. Nếu Đường Từ nói là đi tìm người khác thì Nhu Kha còn có thể nghi ngờ, nhưng nếu là Từ Khiêm, nàng đã có thể hoàn toàn yên tâm.

Vẫn nhớ khi Tân đế đăng cơ, trong buổi lễ tế trời, lúc mọi người đang hô vạn tuế thì Từ Khiêm đứng bật dậy đập nát hốt ngọc, ném gãy mũ quan ngay tại chỗ, bị hai thái giám đạp gối ép quỳ nhưng vẫn ưỡn thẳng lưng không chịu dập đầu, quyết tâm làm nhục tân đế một phen. Kể ra, ông ta cũng biết chọn đúng thời điểm, lễ tế trời không thích hợp với cảnh đổ máu, lại thêm văn võ bá quan cùng nhau quỳ xuống cầu xin, ai nấy nói rằng Từ đại nhân uống rượu quá chén mà phạm thượng. Hoàng đế bấy giờ mặt mày xanh mét, giận đến tím tái, cuối cùng lệnh ông về phủ đóng cửa phản tỉnh. Không bao lâu sau, ông đã dâng sớ từ quan.

Thiên quân dễ kiếm, nhất tướng khó cầu, Hoàng đế tiếc tài Từ Khiêm nên không đành lòng giết mà muốn thu phục, chỉ mong sau này ông đổi ý trở về làm quan. Đến nay chờ đợi đã mười hai năm, ngay cả một ánh mắt của Từ Khiêm cũng chẳng ai thấy đâu.

Từ Phủ.

Không lâu sau, Đường Từ và Nhu Kha đã rửa ráy sạch sẽ, y phục chỉnh tề, được người dẫn vào chính sảnh, còn cô bé thì tạm thời được đưa ra hậu viện để sắp xếp chỗ ăn ở.

Từ Khiêm liếc mắt ra hiệu, đám người hầu hạ trong sảnh liền tự động lui ra.

Cách biệt mười hai năm, nay lại thấy Đường Từ trong bộ nam trang, Từ Khiêm nhìn nàng hồi lâu, nhìn chăm chú từ đôi mắt đến khóe miệng, rồi lại nhìn chằm chằm từ khóe miệng về đôi mắt, hoàn toàn không tìm thấy hình bóng của Vĩnh Gia công chúa khả ái đáng yêu, khuôn vàng thước ngọc của ngày nào.

Thầm nghĩ: Thảo nào cô cháu gái này ngày ngày đi lại trước mắt Hoàng đế, thế mà hắn ta lại không hề nhận ra!

Quả nhiên thế sự biến đổi, bãi bể nương dâu.

Cứ nhìn đến mức thất thố, Nhu Kha đang ngồi cạnh Đường Từ liếc nhìn một cái, Từ Khiêm mới vội vàng đằng hắng rồi thu lại ánh mắt không thể kiềm chế nổi của mình, chắp tay về phía Đường Từ: "Điện hạ thứ lỗi, ta... thất lễ."

Đường Từ mỉm cười: "Từ tiên sinh nói đùa, ở đây làm gì có ai là 'Điện hạ'."

Từ Khiêm lại đằng hắng thêm một tiếng, chỉnh lại tư thế rồi vuốt râu thong thả nói: "Ta đã nhận được thư tay của Tần lão rồi, hai người đã vào thành từ lâu, sao giờ mới đến? Hơn nữa... ta nghe nói lúc hai người xếp hàng nhận gạo trước cổng phủ cũng đã nhiều lần dò hỏi về ta?"

"Không phải dò hỏi mà là tìm hiểu. Cũng như cách tiên sinh sai người theo dõi nhất cử nhất động của chúng tôi từ khi chúng tôi vừa đặt chân vào thành." Đường Từ lại cười, đôi mắt trong đầy ý cười, "Bởi thế mới nói không biết trước mưu tính của chư hầu thì không thể đồng ý kết giao, tiên sinh dùng kế khéo lắm."

Nhu Kha nghe vậy, nhìn sang Đường Từ.

_________

Yến Kinh.

Ngày đó, tan học, Nghi Dương tự tay tặng Lục Hòa một chiếc túi gấm, dặn nàng về nhà rồi mới được mở ra.

Liên tục mấy ngày nay, thấy lời nói và hành động của Nghi Dương đối với mình có nhiều điểm khác lạ, lòng Lục Hòa cũng không khỏi bồn chồn lo lắng.

Từ sau khi Lục Thập Bát và Nguyễn Nương được đón đến kinh thành, Lục Hòa cũng chuyển đến sống cùng họ. Bước vào phủ viện, đi vòng qua Lưu Ngải cùng một nhóm người, nàng vào phòng, đóng cửa lại, rồi mới mở túi gấm ra.

Hạt sen, là một túi hạt sen.

"Hạt sen... hạt sen..." Lục Hòa lẩm bẩm vài lần rồi chợt bàng hoàng nhận ra điều gì, lòng cũng lập tức hoảng loạn, đánh rơi hạt sen vương vãi đầy đất.

——— Hết chương 42 ———

[1] [2] 'Cử mục kiến nhật, bất kiến Trường An.' - Thành ngữ xuất xứ từ thiên "Túc Huệ" trong 'Thế thuyết tân ngữ' của Lưu Nghĩa Khánh đời Nam triều.

Câu chuyện ghi chép cuộc đối thoại thời thơ ấu giữa Tấn Minh Đế Tư Mã Thiệu và Tấn Nguyên Đế Tư Mã Duệ, phát sinh trong bối cảnh Tây Tấn diệt vong, hoàng thất Tư Mã dời sang phương Nam lập nên Đông Tấn.

Tương truyền, trong một buổi yến tiệc, Tấn Nguyên Đế hai lần hỏi Minh Đế nhỏ tuổi rằng:

"Trường An và mặt trời, cái nào gần hơn?"

Lần đầu, Minh Đế đáp:

"Không ai từ bên mặt trời đến, nên mặt trời chắc là xa."

Hôm sau, cậu lại đổi lời:

"Ngẩng mắt thấy mặt trời, chẳng thấy Trường An."

Ý nói mặt trời gần hơn, còn Trường An đã quá xa, chẳng thể trông thấy.

Cuộc đối thoại ấy xảy ra sau khi Lạc Dương thất thủ, Tấn Minh Đế bị hại, và sứ giả từ Trường An đến khiến Tấn Nguyên Đế gợi nhớ cảnh cố đô đã rơi vào tay giặc, lòng bi thương vô hạn.

Sự thay đổi trong câu trả lời của Minh Đế phản ánh thực tế bi thương thời Đông Tấn, khi triều đình đã dời về phương Nam, còn cố đô Trường An vĩnh viễn nằm ngoài tầm với. Câu này về sau được dùng với ý thương nhớ cố đô, cảm thán thời thế đổi thay, vong quốc chi bi.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store