ZingTruyen.Store

[3316 - Lestappen] Call me your man

yours

EmKhng4

Xa rời mùi xăng và cao su cháy, Charles Leclerc chỉ là Charlie trong vòng tay gã.

Tay đua số một của Scuderia Ferrari HP, niềm tự hào của Monaco, hoàng tử trong màu áo đỏ. Người ta đắp lên Leclerc vô số kỳ vọng. Thắng chặng ở Ý, giành P1 ở Monaco, podium ở đó, về nhì ở đây, duy trì phong độ chỗ này và hoàn thành tốt chỗ kia. Rằng P4 đổ xuống là kém cỏi và DNF là nỗi ô nhục. Và rằng tự bản thân Leclerc cũng cảm thấy vậy.

Rằng em cúi đầu xin lỗi trong mọi buổi phỏng vấn hậu đua, mặt tái mét và mắt đỏ ửng. Rằng em dành cả đêm trong quán bar nhỏ ở đâu đó trên dải LA, nốc vào chất cồn bỏng rát rồi lại móc họng để nôn hết sau mỗi lần nhấp môi. Rằng pitwall Ferrari là một mớ hỗn độn nhưng em cụp mắt bảo với thế giới rằng đó là do em. Rằng em nhu nhược, yêu và tin mù quáng vào sắc đỏ chẳng biết là của vinh quang hay là máu thịt tuôn trào. Rằng em như kẻ mù dở trong chính cuộc đời mình, bán mạng trong mỗi cuộc đua và phát điên khi thua cuộc.

Rằng em yếu mềm và mệt nhoài trong vòng tay gã.

Charles, Sharl theo chuẩn kiểu em thích và Charlie theo kiểu gì gã muốn.

Kiêu kỳ, chảnh chọe như một con mèo sphynx¹. Những lúc ấy gã vui mồm gọi em là “Carlosito²”. Ngốc nghếch và hậu đậu. Lúc ấy em là “My racing inchident”. Buồn bã và ủ dột. Lúc ấy em là “My man”. Vui tươi và hứng khởi. Lúc ấy em là “My Charles”. Ngập trong sắc đỏ và thơm lừng mùi adrenaline. Lúc ấy em là Charlie.

Charlie thích ẩm thực Ý, Mễ, Pháp hay linh tinh lang tang các món ăn mang tính “truyền thống”. Em thích pasta với cavatelli³ làm thủ công. Dù gã mù đặc chẳng hiểu cavatelli và orecchiette⁴ lúc ăn có điểm gì khác biệt. Em thích bỏ cây thảo vào súp và sốt mỳ. Nhưng phải là húng lủi chứ không được là bạc hà. Em thích sốt mỳ phải còn lợn cợn thịt quả chứ không được xay nhuyễn, dùng sốt cà đóng sẵn thì lại càng không. Em cầu kì và kiểu cách in hệt lúc ngồi trong khoang lái. Turn 1 phải vào số này, lúc nhả cua đạp phanh thật khéo. Gã đoán ấy là đặc trưng người Pháp hay những người được sinh ra trong âm hưởng nước Pháp. Điệu đà như một dĩa bánh được bày biện theo kiểu ẩm thực haute⁵. Lãng mạn như một ly vang Pháp vừa đến độ chín muồi. Da thịt em ngọt lịm hương macaron, vệt cháy nắng long lanh màu đường hun cứng trên chiếc crème brûlée - thứ mà em nằng nặc bắt gã gọi là lớp caramel cứng chứ không phải đường đun chảy tại chỗ. Người đời gọi làn da mật sau một mùa hè lênh đênh trên biển là “Cháy nắng” - “Sunburn”, em nháy mắt sửa lại là “Vết yêu mùa hạ” - “Sunkiss”.

Bởi chăng Monaco vốn dĩ là điểm giao tinh tế của văn hóa Pháp - Ý, em cứ vậy mà lớn lên với những đan xen ngọt ngào của phong tục ba nước. Monaco là một du thuyền xa hoa neo đậu giữa Địa Trung Hải mênh mông, Charlie là sóng biển. Em dành cả mùa hè dưới nắng gió Tethys⁶, kính Rayban lúc lắc trước đầu mũi và nụ cười thoải mái uốn lượn trên môi mềm. Thịt da em lấm tấm cát trắng, mặn vị muối và thơm ngát hương mặt trời. Hết hè rồi tới thu, em lang thang trên đường phố Pháp, thử hết từ canelé⁷ tới ép gã nếm escargot⁸. Em có thể ôm cái bánh baguette đi khắp đất Marseille⁹ rồi ngồi bừa trên lề phố nhấp nháp vội vài miếng bánh kèm ly espresso mặc kệ cái lườm quýt của người bản địa. Lúc chiều muộn em lại kéo gã vào một nhà hàng kỳ lạ nào đó mà em cam đoan là sẽ đáng tiền, cuối cùng em nhăn mặt trước món andouillette¹⁰. Mùa xuân em hưởng trọn hương chanh vàng ở Limone sul Garda¹¹. Lúc ấy em níu tay gã và dặn “Này nhớ đi chậm lại.”, gã bĩu môi nhưng bước chân đành từ một bước tới đó thành ba bước có lẻ. Có lẽ là do con người ở đây ỷ y vào Apolipoprotein A-1 Milano¹² nên cứ thế mà dề dà qua ngày. Nhịp sống quá chậm so với một tay đua bán sức mình trên chiếc xe có thể lao vào rào chắn với vận tốc hơn ba trăm kilomet. Em cứ ngủ triền miên trong phòng khách sạn, thức dậy chậm rãi với gelato hương chanh. Gã phàn nàn và em cười khẽ nói rằng “Sống chậm thôi anh, hoa chanh còn chưa rụng cánh.” Còn mùa đông, em nép mình trong vòng tay gã. Em có thể ở bất cứ đâu trên thế giới này khi đông về, miễn là kề cạnh gã. Cả hai lơ đễnh ngắm nhìn miền Trung Đông chuyển từ nắng ấm sang gió lạnh chỉ trong một vài giờ đồng hồ từ chiều muộn tới nửa đêm, kéo kín khóa áo khoác và lạc vào cơn gió mùa của vùng Đông Nam Á. Mùa đông có thể là bất cứ đâu, vệt tuyết trên vạt áo có thể là từ bất cứ khoảng trời nào, chỉ cần em bên gã.

Charlie mà gã biết, mơ mộng và lãng mạn.

Một lần nữa, hẳn là do cái chất Pháp - Ý cô đặc đầy ý nhị trong lòng Monaco.

Hoặc đúng hơn, em sinh ra đã tươi tắn và dịu ngọt.

Gã nhớ những tháng ngày go - kart, sẽ luôn có một mặt trời tỏa nắng ở đâu đó trên đường đua quanh co khúc khuỷu. Rằng nụ cười em thắp sáng cả một cõi lòng non nớt. Có thể môi cười đó không phải dành cho gã, vì em là Charlie kiêu kỳ, xinh xắn và hài hước. Còn gã lúc ấy là đứa trẻ cục mịch, tù mù cùng nhạt nhẽo. Nhưng tiếng khúc khích là đoạn nhạc dạo ngọt ngào của khúc “Au Clair de la Lune”¹³ nổi tiếng. Rằng trong những đêm trường thao thức giữa mùi dầu khí nhức mũi, gã lẩm nhẩm Pierrot và Harlequin¹⁴.


“Au claire de la lune,
l’aimable Harlequin
Frappe chez la brune,
elle répond soudain

Qui frappe de la sorte?
Il dit à son tour
Ouvrez votre porte,
pour le Dieu d’amour”

“Dưới vầng trăng tỏ
Chàng Harlequin
Gõ cánh cửa nhỏ
Gọi nàng tỉnh giấc.

“Ai gõ khuya thế?”
Nàng khe khẽ hỏi.
“Hãy mở cửa nhé?
Tình yêu đến rồi.”

“Au clair de la lune
On n'y voit qu'un peu
On chercha la plume
On chercha du feu

En cherchant d'la sorte
Je ne sais ce qu'on trouva
Mais je sais que la porte
Sur eux se ferma.”

“Dưới vầng trăng tỏ
Khó lòng nhìn rõ
Người này tìm bút
Kẻ lần mồi châm

Nhìn qua nhìn lại
Ta vẫn chẳng hay
Chỉ biết cánh cửa
Khép sau lưng người.”¹⁵

Rằng người đời lầm lẫn Harlequin và Lubin¹⁶ đáng mến. Thực lòng mà nói, có lẽ gã sẽ tự sửa lời ca thành “Max.V”, vì nàng tóc nâu¹⁷ là Charlie yêu quý, còn vầng trăng kia là minh chứng ái tình.

Tiếng Pháp long lanh như ngôi Bắc Đẩu, tiếng Ý tỏa sáng như ánh mặt trời. Charles luôn có cách nhấn nhá đặc biệt dành riêng cho từng ngôn ngữ. “Mon amant” - “Người yêu em ơi”, “amore mio” - “anh yêu ơi”, nhiều lúc em vui miệng thì là “mon mari” - “chồng em”, sau mỗi cuộc đua gã là “mon soldat” - “chiến binh của em” trên đầu môi dịu hiền.

“Mon soldat”. Người đời coi hắn là kẻ sát phạt trên đường đua, họ mong gã chiếm lĩnh mọi đấu trường. Khi ấy gã gạt phắt những ý nghĩ kệch cỡm, rằng họ chả là thá gì để gã phải nghe theo. Nhưng ồ. Ôi. “Mon soldat và sống, chết chỉ là những con chữ được sắp xếp ngẫu nhiên. Em hẳn phải thích lắm bài hát sướt mướt của Samantha Jade. Bởi em thì thầm vào tai gã lời ca của “Soldier”, rằng liệu gã có chấp thuận biến thành lưỡi kiếm của riêng và duy mình em, liệu gã có đồng ý hiến dâng kiếp này¹⁸. Và ôi em thương mến. Gã biết thề thốt là chuyện của kẻ lẻo mép, vì em kể Max đã thây kệ lời trăn trối của bạn mình để rồi “văn học Kafkaesque¹⁹” ra đời. Nhưng em ơi ấy là Max Brod²⁰, còn Max Verstappen thiết nghĩ em tồn tại để được yêu thương. Lời đường mật là dối trá chỉ khi người rót mật là kẻ bất tín. Mỗi lời ái ân đều đáng được thốt ra, vì ta là gì nếu thiếu đi sự công nhận. Em trưởng thành từ gia đình đông vui và đầm ấm, chẳng lẽ gì Hervé Leclerc chịu để em sống đời còn lại trong tủi hổ, uất ức.

Viện Hàn lâm Pháp áp lên thứ tiếng của mình một hệ thống quy chuẩn hóa chặt chẽ. Khác với sự lai tạp của tiếng Anh, tiếng Pháp khước từ sự vay mượn, từ ngữ được chắt lọc kỹ càng, cách diễn đạt tinh tế. Cách phát âm cũng chứa đựng trong đó những điều sâu xa cùng cái thú lồng văn chương, nghệ thuật vào lời ăn tiếng nói hàng ngày. Tiếng Pháp của Charles nghe đắt tiền, điệu đà nhưng nhã nhặn. Em sẽ uốn lưỡi ở đâu đó giữa âm mũi và âm “r” khàn khàn, môi sẽ chu ra và đôi lúm đồng tiền thoắt ẩn thoắt hiện trên hai bầu má. Em có một nhịp điệu của riêng em khi nói chuyện. Sôi động chất pop trong “La vie est belle” của La Belle Vie²¹, đôi lúc trầm buồn theo tiếng đàn dịu dàng của bản AUS23 do chính em sáng tác.

Cách em chuyện trò là sự hòa trộn giữa ngôn từ trang nhã, ngôn ngữ cơ thể đa dạng, cử chỉ điệu bộ độc nhất vô nhị mà chỉ em có. Cách em nháy mắt, nhăn mặt, chun mũi, mỉm cười không phải ai trên dải ngân hà này cũng làm được. Từng đường nét nhỏ nhắn trên gương mặt xô nhẹ nhàng vào nhau như các mảng kiến tạo va chạm hay kéo giãn, tạo nên sự bùng nổ của xúc cảm. Cũng cùng lúc tạo nên rung động trong tim gã. Gã thích nhìn em nháy mắt, thích cái cách em nhăn tít gần như cả hai mắt lại, khuôn miệng nhếch lên, môi mỏng cong cong tinh nghịch.

Có lẽ tất cả những tiểu tiết này chỉ đơn giản gói gọn ghẽ lại thành “yêu”. Khi ta yêu ai ta bỗng dưng chú tâm vào điểm ta cho là đáng lưu ý của người đó. Tự những người yêu nhau có cho mình điểm đặc biệt để thu hút đối phương.

Nghĩ lại, Charles đúng lẽ chẳng cần mất công làm duyên làm dáng để tán tỉnh bất cứ ai. Em tốn đúng một đêm hè để làm một gã rockstar người Ý mê mệt, đến nỗi dăm bữa nửa tháng sau y đem em biến thành tình ca cùng hình xăm neo đậu nơi rãnh chậu²². Và em tốn chưa đầy hai giờ để khiến Max Verstappen, khi ấy mới bé tí hi, ngượng ngùng trốn sau mũ bảo hiểm. Gã chẳng tài nào nhớ nổi lần đầu họ gặp nhau là vào năm bao nhiêu tuổi, gã chỉ nhớ lúc ấy bản thân thinh thích một người trong cái độ quá non nớt để hiểu thế nào là thinh thích một người. Cảm giác muốn để ý ai đó, muốn ai đó để ý mình thật lạ lẫm với một đứa trẻ chỉ biết quanh quẩn trong garage. Max biết có gì đó kì lạ trong cách gã luôn nán lại chờ Charles sau mỗi lần phỏng vấn, biết có gì đó không ổn khi gã nhận định Charles là mặt trời, tia nắng. Gã biết có điều gì đó khang khác nảy nở trong tim mình. Nhưng gã ém lại, để tình yêu chảy ra thành dòng nước trong đổ sâm sấp ấm trà, để nước sôi liu riu với bọt khí lăn tăn trên bề mặt.

Thích một người là cảm giác kì diệu và thần tiên.

Yêu một người là cảm giác dè dặt và không chắc chắn.

Thương một người là cảm giác yên bình và dịu ngọt.

Được một người thích lại là cảm giác tự mãn và kiêu căng.

Được một người yêu lại là cảm giác được an ủi và vỗ về.

Được một người thương lại là cảm giác bình lặng và yên tĩnh.

Thiếu niên mười bảy tuổi kịch trạc, bộp chộp khi đó hẳn chẳng mường tượng được mươi mười năm sau bản thân lại có trong tay người mà nó mong mỏi từ tận những năm bi bô tập nói. Max Verstappen khi ấy hẳn chẳng dám huyễn hoặc những xuân, hạ, thu, đông vai kề vai cùng người khi ấy gã cho là giấc mơ diệu huyền. Rằng tay trong tay hóa ra thật gần gũi, rằng môi hôn thực chất rất thân thuộc, rằng “Charlie”“Maxie” ở ngay đây thôi trong phòng ngủ hay kệ bếp. Rằng em ở đây, vừa vặn trong lồng ngực gã; rằng gã ở đây, vừa vặn trong đáy mắt em.

Chú thích:

1. Sphynx: Giống mèo không lông, được biết đến là mèo Canada hoặc mèo Mexico không lông.

2. Carlosito: Tên Charles trong tiếng Tây Ban Nha, thêm hậu tố tiếng Tây Ban Nha “-ito” (nhỏ, dễ thương). Nghĩa kiểu: “Carlos bé nhỏ”.

3. Cavatelli: Một loại pasta nhỏ, dạng vỏ sò thuôn dài, làm thủ công.

4. Orecchiette: Pasta hình cái tai nhỏ (orecchio = tai). Dạng tròn lõm.

5. Haute (haute cuisine): Ẩm thực cao cấp, tinh xảo, cầu kỳ, được trình bày đẹp mắt.

6. Tethys: Biển Tethys – vùng biển cổ đại từng tồn tại giữa các mảng kiến tạo Á – Âu và Phi.

7. Canelé: Bánh nhỏ của Pháp, vỏ caramel cứng, ruột mềm thơm mùi rum và vanilla.

8. Escargot: Món ốc sên nướng bơ tỏi kiểu Pháp.

9. Marseille: Thành phố cảng lớn miền Nam nước Pháp.

10. Andouillette: Xúc xích Pháp làm từ lòng heo, mùi rất nặng.

11. Limone sul Garda: Một đô thị thuộc tỉnh Brescia thuộc vùng Lombardia bên bờ hồ Garde.

12. Apolipoprotein A-1 Milano: Thường được dân địa phương gọi là protein “thần dược”. Theo các nhà khoa học, người sống tại Limone sul Garda sở hữu "gene Limone", chứa một loại protein đặc biệt, có tác dụng phá hủy lipid và chống máu đông. (Nguồn: Làng chài Limone sul Garda: Nơi người dân sở hữu gene kỳ lạ - Báo Lao Động.)

13. Au Clair de la Lune: Bài hát ru nổi tiếng của Pháp

14. Pierrot và Harlequin: Nhân vật kịch câm Commedia dell’arte được nhắc tới trong bài “Au Clair de la Lune”: Pierrot – anh hề buồn. Harlequin – anh hề lanh lợi, đa tình.

15. Bản dịch do mình dịch từ bản dịch thô tiếng Anh sang tiếng Việt, không đúng chuẩn về câu từ.

16. Lyrics của “Au Clair de la Lune” theo một nguồn khác sử dụng Lubin thay vì Harlequin.

17. Nàng tóc nâu: Trong lời bài hát đoạn “Au claire de la lune… pour le Dieu d’amour” dịch sát là Harlequin đã gõ cửa phòng 1 cô gái tóc nâu nhưng mình không dịch thẳng ra mà chỉ để là “Nàng”.

18. Dịch từ lyrics bài “Soldier” của Samantha Jade: “Now, would you fight for me? D-d-d-die for me?”

19. Kafkaesque: Mang phong cách Franz Kafka.

20. Max Brod: Bạn thân của Kafka, người đã không thiêu các bản thảo theo di nguyện của Kafka.
Anw mình rất thích chi tiết này và mình mong mn cũm thích heh. Tên Max dùng để đua GT3 là Fanz Hermann, Max bảo muốn chọn tên nghe “Đức” nhất có thể. Kafka tên đầy đủ là Franz Kafka, bố ông tên là Hermann Kafka, người bạn đã công bố các tác phẩm của ông sau khi ông qua đời tên là Max. Kiểu nó rất là trùng hợp í🥹🤏

21. “La vie est belle” – La Belle Vie: Một ban nhạc Pop của Pháp.

22. Rumor đợt Monza 2023 giữa Charles và Damiano David - thành viên ban nhạc Rock Måneskin. Đại khái thì Måneskin đi diễn trên du thuyền của Charles, tầm 2 tháng sau nhóm cho ra đời bài “The driver”, 1 tháng sau khi phát hành Damiano xăm logo Ferrari lên rãnh chậu. (Đọc thêm tại: https://www.tumblr.com/valyrfia/747918108246802432/im-sorry-the-who-slept-with-whom-rumours?source=share)

A/N: Đm mùa giải củ l tysm. Tạm biệt sf25, tạm biệt rb21 làm bố t choked phân nửa mùa giải. Chúc mừng Lando. Next year will be our year, Char1es Lec1erc!!!!!!!!!!!

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Store